Báo cáo nghiên cứu cô Nguyễn Thị Phương ở Thanh Hoá – TTNCTNCN thực hiện

•Tháng Một 10, 2008 • Gửi bình luận

Cô Nguyễn Thị Phương gọi vong

Hiện tượng về khả năng gọi vong của cô Nguyễn Thị Phương là có thật. Những thông tin quá khứ và hiện tại đều được các vong nói ra đúng 100%, đồng thời còn giúp cho người thân giải quyết được nhiều việc, trong số đó có vấn đề dự báo. Sau đây là bản báo cáo về trình tự tiến hành nghiên cứu khả năng đặc biệt của cô Nguyễn Thị Phương.

TTNCTN CỦA CON NGƯỜI- BỘ MÔN CẬN TÂM LÝ

ĐOÀN KHẢO SÁT

————

Số: 23/TL-KS

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

————————————

Hà Nội, ngày 23 tháng 02 năm 2000

BÁO CÁO KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐỢT I

Khả năng đặc biệt của cô Nguyễn Thị Phương – Hàm Rồng, Thanh Hóa
(từ 14/01/2000 đến 25/01/2000)

I. QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ
1.1. Chuẩn bị cơ sở pháp lý sau khi có gợi ý của Ban Khoa giáo TW

– Ngày 7/4/1999, Lãnh đạo TTNCTNCN họp giao nhiệm vụ cho bộ môn Cận tâm lý.

– Ngày 16/4/1999, Đoàn cùng Ban Khoa giáo TƯ vào làm việc với cơ quan từ tỉnh, huyện và xã đến gia đình cô Phương. Được sự nhất trí của các thành phần trên, Đoàn đã có công văn số 9 TL/NC và 12 trang phụ lục ngày 17/4/1999 báo cáo cấp trên.

– Ngày 24/6/1999, TTNCTNCN có công văn số 15 NC/TN gửi Ban Khoa giáo TƯ, Bộ KHCN & MT, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam.

– Ngày 22/10/1999, TTNCTNCN có công văn số 16 NC/TN gửi tiếp 3 cơ quan trên.

Sau đó, TTNCTNCN nhận được công văn trả lời đồng ý và giao cho TTNCTNCN đảm nhiệm:

+ Công văn số 989 CV/KGTW ngày 26/10/1999 do GS. TS. Nguyễn Hữu Tăng, phó Ban Khoa giáo TƯ ký;

+ Công văn số 3182 Bộ KHCN & MT ngày 15/11/1999 do quyền Vụ trưởng KHXH và TN Vũ Huy Chương ký;

+ Ngày 27/10/1999, hồi 14 giờ 30, GS TS Vũ Tuyên Hoàng làm việc với lãnh đạo TTNCTNCN, trả lời đồng ý giao nhiệm vụ cho Trung tâm;

+ Ngày 25/11/1999, quyền Giám đốc TTNCTNCN có công văn số 26/CV gửi Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa giới thiệu Thiếu tướng Nguyễn Chu Phác, Trưởng bộ môn Cận tâm lý chủ trì Đoàn khảo sát.

Trong khi chờ Quốc hội họp xong và sự phân công của tỉnh, thời gian này đoàn vào làm việc với các cơ quan chức năng như sở KHCN & MT, ban Tuyên giáo, ban Nội chính v.v…

Cuối tháng 12/1999, tỉnh phân công đồng chí Lôi Xuân Len – phó Chủ tịch UBND theo dõi vấn đề trên. Đầu tháng 01/2000, đồng chí Lôi Xuân Len phân công đồng chí Nguyễn Văn Thát – nguyên phó Chủ tịch UBND, nay là Chủ tịch các hội LHKHKT tỉnh Thanh Hóa trực tiếp theo dõi. Đồng chí Nguyễn Văn Thát phân công đồng chí Trần Ngọc Chấn, Chủ tịch hội Tâm lý giáo dục tỉnh Thanh Hóa cùng Đoàn triển khai (giai đoạn này chúng tôi đã 6 lần đi vào Thanh Hóa làm việc và khảo sát).

1.2. Bộ phận trực tiếp khảo sát tại Thanh Hóa

Bà Quan Lệ Lan, nguyên cán bộ giảng dạy môn toán bậc đại học, ông Nguyễn Quang Thịnh, nguyên chuyên viên cao cấp Trung tâm Khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia với sự cộng tác của ông Nguyễn Ngọc Nghinh (bố chồng cô Phương).

II. TIẾN HÀNH KHẢO SÁT
2.1. Giai đoạn thu thập thông tin tại “điện nhà cô Phương” từ 14/01 đến 25/01 năm 2000

Ông Nghinh cùng cán bộ thực hiện trắc nghiệm hàng ngày trước lúc làm việc thường giải thích và phổ biến một số điều cần thiết để các gia đình thông cảm, hợp tác với đoàn khảo sát.

Người đến đó không cần báo cho cô Phương tên mình và tên vong cần mời về, từng gia đình cần cúng mời vong đi từ nhà mình. Khi vong của gia đình nào về, cô Phương báo gia đình đó vào để vong nhận và nhận vong (vì có lúc hai, ba người trùng tên), sau đó ra ngoài làm thủ tục. Khi vong nhập vào cô Phương gọi ai thì người đó vào (hoặc vào cùng một lúc). Kết thúc, người nhà ra ngoài gặp nhóm trắc nghiệm tự ghi vào phiếu (cũng có khi ghi hộ), tự đánh giá kết quả và ký tên, nếu được gia đình đồng ý thì sang băng ghi âm (một số gia đình đề nghị được ghi cảm tưởng).

2.2. Giai đoạn thống kê, phân tích, tổng hợp từ 26/01 đến 22/02/2000

Trên cơ sở các phiếu trắc nghiệm, bộ phận này phải đọc lại các phiếu trắc nghiệm, thống nhất với băng ghi âm, nghe lại các băng ghi âm để ghi tóm tắt, tổng hợp phân tích, đưa vào máy vi tính.

III. KẾT QUẢ KHẢO SÁT
Gồm có báo cáo tóm tắt, thống kê số liệu, điểm nội dung chính, thống kê tổng hợp, báo cáo bổ sung của nhóm trực tiếp trắc nghiệm.

Trong báo cáo thống kê không có một số trường hợp mà đoàn đã theo dõi và một số trường hợp gia đình về ngay không ghi phiếu. Ví dụ, trường hợp Trung tướng Nguyễn Hùng Phong, nguyên Phó Tư lệnh Chính trị, nguyên Bí thư Đảng ủy Quân khu I; bà Mai Cương, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài chính; một Việt kiều ở Pháp…

Về đối tượng: Trong số 97 gia đình, có 49,48% là công nhân viên, còn lại là các nhà doanh nghiệp, nông dân, cán bộ hưu trí, bộ đội, sinh viên… trong đó có 56,7% nữ, 43,3% nam.

Về số lượt người đi vào “điện nhà cô Phương”: Có 50,52% đi một lần, còn lại đều từ 2 đến 9 lần hoặc có người đi nhiều hơn.

Về trình độ học vấn: Trình độ phổ thông chiếm 63,93%, đại học – 27,83%, trên đại học – 5,15% (trong đó có một số cán bộ cao cấp).

Về địa phương: Hà Nội chiếm 39,2%, Thanh Hóa – 25,5%, Nghệ An – 13,4%, còn lại là từ thành phố Hồ Chí Minh, Hà Tĩnh, Thái Bình, Đắc Lắc, Đồng Nai, Hải Dương, Nam Định, Quảng Ninh và có một người Thái Lan (không biết tiếng Việt).

Về lứa tuổi: Có một người trên 80 tuổi, từ 49-59 có 45,4%, từ 60-79 có 28,9%, từ 29-39 có 24,7%.

Về hiệu quả giải quyết được: Giải tỏa tâm lý – 82,4%; quan hệ gia đình – 74,23%; giáo dục con cháu – 61,86%; mồ mả hài cốt – 47,42%; công việc làm ăn – 34,2%.

Đánh giá chung: Các thông tin đều đúng 100%.

Để minh họa cho báo cáo này, Tiến sĩ Kiều Oanh sẽ trình bày bảng thống kê phân tích; bà Quan Lệ Lan báo cáo bổ sung rút ra một số điểm có tính chất định tính.

IV. PHƯƠNG HƯỚNG TIẾP TỤC ĐỢT 2 VÀ DỰ KIẾN TỔNG KẾT

4.1. Về khảo sát

Đợt 2 được tiến hành từ 25/2 đến 7/3/2000 tại Thanh Hóa.

Từ 9/3 đến 19/3/2000 làm việc tại Hà Nội.

Đợt này đề nghị bổ sung một cán bộ tỉnh Thanh Hóa và bà Nguyễn Thị Ngọc Trúc, PTS tâm lý giáo dục.

4.2. Về tổng kết

Bước 1: Thực hiện tại Thanh Hóa (để cán bộ Thanh Hóa được dự đông).

Bước 2: Thực hiện tại Hà Nội, mời một số cán bộ lãnh đạo, thủ trưởng, một số Bộ và Ban ngành có liên quan, đại biểu tỉnh Thanh Hóa và một số nhân chứng.

4.3. Có thể nêu kiến nghị

Nếu tiếp tục khảo sát thì nên thực hiện những nội dung gì, cơ quan nào chủ trì, vấn đề bảo đảm kinh phí và đi lại…

Đề nghị khen thưởng cô Phương và gia đình. Chỉ tính 5 năm gần đây, nếu mỗi ngày cô Phương giúp 10 người, mỗi tháng làm việc 25 ngày, một năm tính 10 tháng thì sẽ có con số bằng 2500 người ´ 5 (năm) = 12.5000 người được giải tỏa tâm lý và giúp đỡ nhiều mặt như đã nói ở trên.

Sau này, đề nghị Viện Con người nên tập hợp một số người (đã qua khảo sát) để khai thác những vấn đề cần thiết cho ích quốc, lợi dân.

Tóm lại, hiện tượng về khả năng đặc biệt của cô Nguyễn Thị Phương là có thật. Những thông tin quá khứ và hiện tại đều được nói ra đúng 100%, đồng thời còn giúp cho người thân giải quyết được nhiều việc, trong số đó có vấn đề dự báo.

Thay mặt nhóm khảo sát, xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo, các cơ quan Trung ương và Thanh Hóa đã nhiệt tình giúp đỡ việc khảo sát thành công của Đoàn.

T/M ĐOÀN KHẢO SÁT

Trưởng Bộ môn Cận tâm lý

Thiếu tướng, TS NGUYỄN CHU PHÁC
(Đã ký)<

TTNCTN CỦA CON NGƯỜI – BỘ MÔN CẬN TÂM LÝ – NHÓM KHẢO SÁT TRỰC TIẾP

—————–

Số: 24/TL-KS
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

————————————-

Hà Nội, ngày 23 tháng 02 năm 2000

BÁO CÁO BỔ SUNG CỦA NHÓM TRỰC TIẾP KHẢO SÁT VÀ LẬP PHIẾU

“Khảo sát khả năng đặc biệt của cô Phương – Hàm Rồng,Thanh Hóa(từ 14/01/2000 đến 25/01/2000 Để minh họa cho Thông báo kết quả đợt I “Khảo sát khả năng đặc biệt của cô Phương” ở huyện Hàm Rồng (Thanh Hóa), chúng tôi gồm có Nguyễn Quang Thịnh – chuyên viên cao cấp Trung tâm thông tin tư liệu thuộc TTKHTN và CNQG và Đinh Lan – cán bộ giảng dạy toán bậc đại học đã nghỉ hưu, là những người đã trực tiếp theo dõi và lập phiếu khảo sát cũng như sang lại băng của những cuộc gặp giữa vong và người thân tại điện thờ ở nhà cô Phương. Tất nhiên, chỉ sang lại băng của các trường hợp mà gia đình đồng ý, xin báo cáo rõ thêm qua 97 phiếu khảo sát mà chúng tôi đã lập được. Báo cáo bổ sung minh họa có tính định tính này cũng nhằm đáp ứng mục đích của kế hoạch khảo sát đã đề ra, nghĩa là xác định tính đúng sai của những thông tin do quần chúng đưa ra, khẳng định những điều đã và đang là sự thật diễn ra tại “điện nhà cô Phương – Hàm Rồng, Thanh Hóa”.

Trước hết, nhận xét đầu tiên của chúng tôi về “điện nhà cô Phương” là một gian nhà rộng chừng 30 mét vuông, trong nhà chỉ có một bàn thờ đơn sơ, không trang trí gì ngoài mấy bát hương. Còn cô Phương, một phụ nữ 26 tuổi, xinh đẹp, ăn mặc rất giản dị. Bắt đầu buổi lễ với vẻ mặt thành kính, cô khấn cúng rất đời thường: “Con niệm Nam mô a di đà Phật, xin các chân linh Bồ Tát, hôm nay ngày… tháng… năm… cho các vong linh về gặp người thân, đường sá xa xôi cách trở, các gia đình đã đến đây…”.

Qua chứng kiến những cuộc gặp gỡ của các vong với gia đình, chúng tôi cảm nhận việc làm của cô Phương là hoạt động tâm linh chân chính, không có màu sắc mê tín dị đoan, vì cô Phương cũng không gọi được hồn nào mà chính vong của từng gia đình đi theo gia đình về báo cho cô Phương, gọi người nhà vào nghe vong nói. Qua phỏng vấn các gia đình, chúng tôi cũng khẳng định không thể là một “siêu khả năng” đọc ý nghĩ người khác của cô Phương. Bởi vì rất nhiều người phát biểu: “Vong nói cả những chuyện gia đình đã quên sau một thời gian dài, hay những chuyện mà người đi gọi vong không biết, phải hỏi lại người ở nhà mới xác định là đúng”.

Qua 98 phiếu khảo sát với băng ghi âm kèm theo, chúng tôi đánh giá một số nét như sau:

1. Quan hệ người đi tìm với vong, giữa các vong

Phần lớn là cốt nhục, máu mủ, tuy nhiên cũng có những trường hợp sau đây vong vẫn về: bố mẹ nuôi (phiếu 72), kế mẫu (phiếu 46), người yêu cũ từ hơn 30 năm trước (phiếu 37A), bạn bè (cô gái tên là Tâm tới tìm bạn, không lập phiếu).

Trong đợt này, vong cao niên nhất là vong cụ Hồ Quý Ly, nhỏ nhất là vong một cháu mất lúc mới 8 tháng; từ khi mất, thời gian mời vong về gần nhất là 50 ngày. Giữa các vong có quan hệ như lúc còn sống: vợ chồng, cha mẹ, ông bà, xóm giềng, bạn bè… điều này thấy ở tất cả các trường hợp, một gia đình có từ 2 đến 8,9 vong về trở lên.

2. Cách xưng hô và cách gọi

Các cá nhân, gia đình được chúng tôi khảo sát, phỏng vấn đều khẳng định là cách xưng tên của vong cũng như cách gọi người thân của vong rất gây ấn tượng, mọi người đều nhận thấy từ ban đầu: vong đó chính là người nhà của mình, không thể lẫn lộn. Một số ví dụ sau đây nói về việc vong xưng và gọi (qua cô Phương):

– Linh hồn liệt sĩ Lê Quý Huệ hy sinh ở An Giang – Bảy Núi muốn gặp người thân (phiếu 46).

– Có linh hồn tên là Khôi, tức Thành (phiếu 2), có trường hợp gọi tên người nhà là Sơn thì hai người đàn ông tên Sơn cùng đứng lên, nhưng vong (qua cô Phương) trỏ tới một người nói “Sơn này có con tên là Giang mới là người nhà của ta”!

– Có một gia đình (phiếu 97), vong ông nội về gọi tên con cháu và phân biệt rõ là nhà có 2 Xuân: Xuân Hà và Xuân Giang. Hà và Giang là tên hai cháu dâu của vong. Có trường hợp cháu tên Tuấn: Tuấn cháu nội, Tuấn Anh chắt nội và cháu Tuấn có tật (liệt chân) là chắt ngoại.

– Ở phiếu 17, vong một bà về gặp chồng, các con và cháu. Vong nói: cháu ngoại là Phương Linh, lấy từ chữ Phương là tên con rể vong, tại sao cứ gọi cháu là Ĩn.

3. Vong nêu nguyên nhân dẫn đến cái chết của mình

Đây cũng là một điều nói lên tính xác thực của thông tin. Không tính đến những liệt sĩ hy sinh ngoài mặt trận và những người chết do tuổi già, sức yếu. Còn trong khoảng hơn 150 vong về, nhiều vong nói rõ cái chết đặc biệt, ít gặp của mình như chết đuối (phiếu 1, 28, 30, 67), chết do mắc bệnh hoang tưởng rồi treo cổ tự vẫn (phiếu 93), chết do bị kẻ gian bóp cổ ăn trộm tiền của (phiếu 10)…

Như trường hợp một bà cô tên là Nhung, chết trẻ vì bệnh cam tẩu mã, hai người cháu đi gặp vong không hề biết, phải xác định qua bố là anh ruột vong mới biết là đúng như vậy. Đây là một trong nhiều ví dụ để chúng tôi loại trừ khả năng của cô Phương “đọc ý nghĩ” người tiếp cận.

4. Vong biết mọi việc xảy ra với người thân

Các gia đình, các cá nhân mà chúng tôi khảo sát, phỏng vấn đều xác nhận một điều là những việc đã, đang làm của mọi người thân, kể cả dự định sẽ làm, vong đều biết; có trường hợp vong trách: gia đình hẹn vong (chúng tôi hiểu là khấn ở nhà) là đến gặp từ hôm qua mà hôm nay mới tới để vong phải chờ, hoặc gia đình đã làm đám giỗ vong trước một ngày để đi tới “điện nhà cô Phương”.

– Từ những việc lớn trong nhà như mồ mả, đất đai:

Ví dụ mộ bị nứt 5 đường, vong vẽ 5 đường nứt (phiếu 58), chỉ rõ vị trí ngôi mộ của vong mà gia đình đang định tìm kiếm; có trường hợp gia đình đã tìm được (phiếu 57, 58); có trường hợp gia đình xác nhận thông tin nhận được trực tiếp ở vong (qua cô Phương) trùng với thông tin mà gia đình biết được từ 2 người có khả năng đặc biệt trong tìm mộ là cậu Liên và cô Thao (phiếu 40). Việc con cháu có ý định xây lăng mộ hoặc gia đình đã dịch gia phả từ chữ Hán nôm sang chữ Quốc ngữ (phiếu 69, 97).

– Đến những chi tiết khác như:

Cháu nghiện hêroin, hay người ăn cắp (phiếu 50, 31, 42) vong gọi rõ (như trong phiếu 58), cháu Nguyễn Thị Hoàng Yến đang học ở Anh, cháu Lan định sang Nga hay trong phiếu 74 cháu Bảy đang lo chuyện nhập quốc tịch ở Tiệp, lần này về chỉ để kiếm vợ là người Việt Nam rồi đưa sang Tiệp làm ăn sinh sống. Tại phiếu 60, vong bà mẹ về gọi rõ con gái tên là Chi vừa ở Mỹ về đến gặp vong, nhưng sẽ phải sang Mỹ ngay không kịp ăn Tết ở Việt Nam (lúc đó còn 10 ngày là tết); ở phiếu 65, vong là cô ruột, cũng là mẹ nuôi của người gọi vong nói nỗi nhớ nhà, vong nói rõ: nhà cô ở cách nhà (cha, mẹ) của cháu 16 số, 16 cộng 64 là nhà của cô. Thực tế được gia đình xác nhận, đó là 2 ngôi nhà 64 và 80 phố Hàng Q. Hà Nội.

Ở tất cả các phiếu khảo sát mà chúng tôi đã lập được, đều chứng tỏ vong biết các chuyện trong nhà, ngay cả đứa cháu vừa bị bỏng hay ngã gãy tay hôm trước, gia đình mới mua tivi 5 ngày trước hoặc bố mới chữa ống nước cách 3 ngày v.v…

Tuy nhiên, không phải lúc nào vong cũng ở bên người thân. Qua theo dõi liên tục thấy sự tồn tại một thế giới các vong là có thực, nhưng các vong cũng đi đây đó, làm công việc của vong. Ví dụ ở phiếu số 10, vong người cô ruột nạn nhân (cháu Hùng, 12 tuổi) xưng là cô Văn Thị Thanh (em ông Văn Đình Hùng, người đi tìm vong). Vong bà Thanh về khóc, ân hận, sợ anh chị trách móc là nhà có bà cô linh thiêng sao để kẻ gian vào nhà giết cháu, cướp của. Vong bà Thanh nói: lúc xảy ra tai nạn với cháu, vong vắng nhà.

5. Tình cảm, thái độ của vong (qua cô Phương) đối với người thân

Để thấy rõ điều này với những ai chưa một lần tới “điện nhà cô Phương” thì ngoài việc đọc các phiếu khảo sát, có thể nghe vài đoạn băng ghi âm mà chúng tôi đã xin phép các gia đình sang lại.

Chúng tôi có nhận xét rằng với các vong của người mới mất gần đây (thường cũng phải ngoài 49 ngày), vẫn còn nhiều lưu luyến, tiếc nuối cuộc đời không kéo dài hơn được. Đặc biệt với các vong của người ra đi một cách đột ngột hoặc oan ức thì vong khóc lóc thảm thiết, nước mắt, nước mũi ròng ròng.

Với những vong của người đi đã lâu thì có thái độ trầm tĩnh, một vài trường hợp hóm hỉnh, cười vui. Ví dụ, vong cha đẻ của nghệ sĩ hài TĐH về nói với con: “Từ sáng, cha chen ngang 4 lần rồi, lúc nào cha chen được là chen”. Theo nghệ sĩ TĐH xác nhận: đúng là lúc còn sống, ông Hiển hay vui đùa như vậy (phiếu 14), hay ở phiếu 73 vong bố cười vui về chuyện ông thông gia – bố vợ anh Cương – người đi tìm vong, cứ nghi ngờ con rể trong quan hệ nam nữ. Vong nói: đó là chuyện quá khứ thôi!

Có vong về xót xa ân hận vì lúc sống nghiện hêroin làm khổ mẹ và vợ con (phiếu 14); có vong nói: lúc còn sống, sau khi đi lao động ở Liên Xô về, có nhiều tiền mà “kibo” (đúng như từ vong dùng) với mẹ đẻ (phiếu 45), khi chết đi tiền ở bên nhà chồng.

Có vong về buồn rầu, than thở: “Ta buồn vì cháu Liên Trung Ngã của ta phạm pháp, đang bị giam giữ” (phiếu 35).

Nhiều vong rất tự hào về sự hy sinh của mình là vì dân, vì nước hoặc có mẹ được phong Bà mẹ Việt Nam Anh hùng hoặc có vợ con chăm làm việc thiện…

Bao trùm lên tất cả các phiếu khảo sát mà chúng tôi đã lập được là những lời khuyên hướng thiện, nhân đức của vong đối với người thân. Ngay cả vong người vợ phải tự tử chết do chồng nghi oan, vẫn khuyên con cháu đối xử tốt với bố: “Đó chẳng qua là bố mẹ hiểu lầm nhau” (phiếu 79). Hoặc có vong người vợ về nói: sẽ tìm vợ mới cho chồng và dặn con gái phải cư xử đúng với bà kế mẫu tương lai (phiếu 60).

Có lời lẽ vong dùng rất “bài bản”: “Mọi người sống tốt thì xã hội mới phát triển”(!)

Các vong đều khuyên gia đình đừng đốt vàng mã nhiều, đừng mê tín dị đoan tốn tiền vô ích; với người thân đang bệnh tật, nhiều vong có lời khẳng định: “Đó là bệnh trần, phải dùng thuốc”.

Vong cũng khuyên người sống phải tôn trọng pháp luật (như ở phiếu 35) hay ở phiếu 10, vong nói với gia đình: vong chết do tên… (nói tên X), tả hình dạng, nghề nghiệp, tả rõ lúc tên giết người hành sự, câu chửi cũng như hành động của kẻ thủ ác. Xong vong nói: “Thời nào cũng có Bao công, người ta sẽ tìm đủ chứng cớ buộc tội, không thể chỉ căn cứ lời người chết, vì vậy gia đình cần bình tĩnh, không trách cứ công an, viện kiểm sát…”.

Với những thói xấu của người thân, vong có thái độ rõ ràng như trách móc, khuyên răn, đó là ở các phiếu 2, 3, 8, 33, 17, 81 gia đình có chuyện bất hòa, nghiện rượu, nghiện hêroin… như ở phiếu 2 (trong băng ghi âm) vong là liệt sĩ nói với em: “Cả khu không ai gọi em là ông Lập hay anh Lập, người ta toàn gọi em là thằng Lập say”.

Nhiều vong rất tế nhị như ở phiếu 37B, lúc có con gái vong chỉ nói con gái bị u xơ, bệnh trần, tìm thuốc chữa, nhưng khi con gái đã ra ngoài sân (vô tình hay do vong điều khiển?) thì vong nói riêng với hai con trai (lúc này cô Phương tắt băng ghi âm) là con gái bị ung thư, sẽ chết. Có những trường hợp vong không đồng ý cho lập phiếu khảo sát, vì vậy có trường hợp không có phiếu, nhưng có băng ghi âm, trong những băng này không có địa chỉ người đi tìm vong, ví dụ ở băng số 2 mặt B, băng số 4 cả 2 mặt A và B).

6. Vong nói về mồ mả, hài cốt

Chúng tôi nhận xét rằng, cô Phương không giống một số người có khả năng đặc biệt khác chuyên làm việc tìm mồ mả, hài cốt. Mọi người đến “điện nhà cô Phương” cũng không chỉ có mục đích tìm mồ mả, hài cốt người thân. Tuy nhiên, các gia đình có bức xúc về vấn đề này cũng được vong (qua cô Phương) cho biết ngay, hướng dẫn chỗ phải đi đến hoặc có những giải đáp thỏa đáng.

Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập tới một vài trường hợp coi là đã được xác định đúng.

Ví dụ ở phiếu 97, vong ông nội về nói ngay: các cháu đến đây hỏi về việc mồ mả hài cốt, nhưng chuyện này ông chỉ nói với bố mẹ các cháu mà thôi! Đó là có một cô ở thành phố Hồ Chí Minh đến “điện nhà cô Phương” với bức xúc là người nhà sang cát cho 6 mộ của họ tộc, nhưng sơ suất không đánh số. Vì vậy, việc bộ hài cốt nào ứng với bia ghi danh nào thì chưa chắc chắn.

Ở phiếu 24, vong liệt sĩ Lê Văn Thiệp nói với cô em ruột là: xương cốt nằm dưới nền một nhà máy in ở Hà Nội. Về điều này, gia đình cho biết trùng với lời ông Phan Tử Lăng, thủ trưởng của liệt sĩ Thiệp đã nói với gia đình 40 năm trước và nơi đó là nhà máy in Tiến Bộ ngày nay.

Có trường hợp vong liệt sĩ về nói chết bên Cămpuchia, được chôn cất trước cửa nhà một ông cán bộ (phiếu 37B), gia đình cho biết trùng với thông tin do đồng đội đã nói với gia đình.

Có trường hợp vong nói mộ gia đình đã lập là mộ giả, không có hài cốt (phiếu 38B, 59A), các gia đình xác định đó là sự thật. Tuy nhiên, các vong đều nói hồn đã nhập mộ!

Có trường hợp, vong nói chết trên biển từ 48 năm trước, không còn cốt, trùng với thông tin mà đồng đội đã nói lại về cuộc vượt ngục ở Côn Đảo (phiếu 55).

Cũng có trường hựp gia đình xác nhận thông tin về mộ do vong nói trùng với thông tin do hai nhà ngoại cảm là cậu Liên và cô Thao nói, nhưng người nhà chưa đi tìm (phiếu 40).

Trong cả đợt khảo sát (97 phiếu), có duy nhất một trường hợp vong vô cùng giận dữ, đó là phiếu 89, vong bà mẹ về trách móc con cháu khi bốc mộ cho mẹ lại bốc nhầm mộ nhà khác: “Mặc áo nhầm thì còn được, xương cốt nhầm là làm sao? Chúng mày đã nhận người khác là mẹ rồi à!”.

Ở phiếu 92, vong chồng tên Sĩ nhắc vợ tên là Nga về mộ một vong tên là Quang, nằm gần mộ của vong. Bà Nga không biết Quang là ai. Sau đó gọi điện về Hà Nội (bà Nga hiện ở thành phố Hồ Chí Minh) mới biết Bùi Tường Quang là cháu của chồng, do cha mẹ anh chị em đã chết cả, nên mộ của vong Quang chưa được xây. Đây cũng là ví dụ để nói rằng cô Phương không hề làm cái việc là “đọc ý nghĩ” của người đi tìm vong.

7. Dự báo của vong cho người thân

Việc vong chỉ mồ mả, hài cốt phần lớn ta phải chờ thời gian mới có đánh giá, tuy nhiên như ở phần 6 đã có một số trường hợp có thể đánh giá ngay về sự chính xác, ngoài ra một số trường hợp khác, điều mà vong báo với gia đình chính xác một cách không lý giải được.

Ví dụ ở phiếu 20, hai người con đi gặp vong bố chết 1 năm trước về bệnh ung thư để hỏi về bệnh của mẹ, vong người bố nói mẹ cũng bị ung thư sẽ chết, điều này đã được bệnh viện xác nhận.

Ở phiếu 38A, người đi tìm vong tên Cương, ghi cả 2 lần đi gặp vong ông nội trong phiếu khảo sát và cũng cho chúng tôi thu băng cả hai lần. Lần thứ nhất vong ông nội bảo: bố anh Cương đang bị bệnh ung thư sẽ chết vào tháng 12 Kỷ Mão, lúc này bố anh Cương đang nằm ở bệnh viện tỉnh Nghệ An. Lần thứ hai, anh Cương đến “điện nhà cô Phương” ngày 15/01/2000, tức là 10/1 Canh Thìn, sau khi bố anh Cương đúng là đã chết vì ung thư, ngày chết vào giữa tháng 12 Kỷ Mão như vong ông nội đã báo trước, lần này vong ông nội về báo là vong bố anh Cương đã xuống Âm với ông rồi và ông đang chăm sóc.

Ở phiếu 52, người đi tìm vong là chị Tùng, chị cũng cho ghi 2 lần đi tìm gọi vong cách nhau 4 ngày. Lần thứ nhất vào ngày 13/01/2000, lúc nhóm khảo sát chúng tôi chưa làm việc và lần thứ hai là ngày 18/01/2000, chị Tùng cũng để chúng tôi thu băng lại.

Ở lần thứ nhất, vong em chị Tùng là liệt sĩ Trịnh Minh Thông nói em ruột là Trịnh Minh Thư bị tâm thần, đang nằm bệnh viện, chị Tùng phải lên chùa cúng, em Thư sẽ khỏi.

Về nhà, chị Tùng lên chùa nhờ các sư cúng (duy nhất 1 lần!). Quả nhiên, bệnh cậu Thư khỏi. Hôm 18/01/2000, chị Tùng có dẫn cả cậu Thư đến, trước mặt chúng tôi là một thanh niên khỏe mạnh, nhanh nhẹn, cậu Thư phát biểu: “Chẳng hiểu tại sao lại khỏi!”.

Chúng tôi rất chú ý liệt kê, đánh giá các điều mà vong về báo trước cho người nhà như bệnh tật, tai nạn… Tuy nhiên, để làm việc này cần có khoảng thời gian.

(Nói thêm: trước ngày 22/12 Kỷ Mão, tôi cùng con gái (27 tuổi) có cuộc nói chuyện ngắn vài phút với cô Phương. Cô Phương nói rằng: “Không hiểu Tết nhất thế nào mà mấy hôm nay cháu “thấy” máu và xác người đầy trên đường”).

Khi viết báo cáo này, tôi liên hệ câu nói đó với những tai nạn giao thông xảy ra trong dịp Tết vừa qua, vượt hơn hẳn mọi năm. Phải chăng đây cũng là sự dự báo của cô Phương?

8. Một số hiện tượng đặc biệt

Trong đợt khảo sát này, chúng tôi đã gặp những hiện tượng thần bí, các gia đình đều công nhận là đúng 100%, cũng xin viết lại để tham khảo.

Tại phiếu 15A, vong cụ Hồ Quý Ly về gặp cháu 18 đời là ông Hồ Sỹ Phúc, ở số 11 đường Nguyễn Tuân, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Từ 10 năm trước, vong cụ Hồ Quý Ly chỉ chỗ cho ông Phúc vào một cái hang (qua giấc mơ), nay cụ hỏi lại và ông Phúc xác nhận đúng. Cái hang đó chỉ ông Phúc là trèo vào được, thanh niên khỏe mạnh đi cùng không ai vào được, toàn trượt ngã.

Trong hang (vong cụ Hồ Quý Ly có vẽ hình) có 1 con trăn, con trăn đó chỉ kêu 2 tiếng “chít, chít” rồi bò vào một góc nằm cuộn tròn.

Hai chữ tượng hình (mật mã) do ông Phúc chụp được ở hang trùng với 2 chữ mà vong cụ Hồ Quý Ly (qua cô Phương) đã ghi trước đó cho ông Lê Văn Tạn ở Thọ Xuân – Thanh Hóa, vong cụ Hồ Quý Ly báo tin: ông Tạn cũng là cháu đời thứ 18 của cụ, là ngành dưới (tức là em ông Phúc ở Hà Nội), sở dĩ có chuyển đổi sang họ Lê vì xưa kia con cháu cụ sợ bị hình phạt tru di tam tộc.

Ông Phúc ở Hà Nội và ông Tạn ở Thanh Hóa trước khi đến cô Phương không hề quen biết nhau, nay qua vong cụ Hồ Quý Ly, hai ông nhận ra cùng họ và trở thành anh em thân thiết.

Ở phiếu 29, vong bà mẹ về kể lại năm 1987, trước khi bà chết vài tháng có một con rắn cạp nong to vào nhà. Đó là con rắn thần, các con đã đánh chết. Ở phiếu số 52 cũng vậy, vong người anh về kể lại cách đây 5 năm, em trai có làm mộ giả cho anh trên đồi cao, trên đường đi có một con rắn nằm cuộn tròn giữa đường. Vong người anh lúc đó đã nhập vào con rắn. Hoặc có vong nói trước ngày giỗ đã điều khiển một con chim bay vào nhà, có thấy không? Gia đình xác nhận là có con chim bay vào nhưng bay ra ngay…

Nhìn chung, trong 97 phiếu khảo sát có 96 phiếu đều ghi: sau khi gặp vong của người thân thì họ vui vẻ, có duy nhất 1 trường hợp ghi buồn! Vong ông bố bị chết vì ung thư, nay vong lại báo là người mẹ cũng sắp chết do ung thư!

Nhiều người sau khi gặp vong người thân, bước ra khỏi “điện nhà cô Phương” với nụ cười trên môi và nước mắt chảy dài trên má. Họ đã nhận được những lời khuyên bảo, răn dạy, giải tỏa được những bức xúc về mồ mả gia tiên, tâm tư tình cảm, công ăn việc làm, quan hệ gia đình và xã hội… Họ đều tin là người thân của họ tuy đã đi xa nhưng không phải hết tất cả, những vong của người thân vẫn luôn ở bên ta, quan tâm, chăm sóc ta. Nhiều người nói: “Phải sống thiện hơn, không có các vong biết hết!”.

Cá biệt, có những vấn đề lớn trong gia đình được giải tỏa như sau:

– Một vong về minh oan cho chú và gọi rõ tên kẻ giết người (phiếu 10);

– Vong của hai bố con liệt sĩ về minh oan cho vợ, mẹ trước những người than khác: nỗi oan “hoang thai” mà bà đã phải chịu đựng suốt từ năm 1967 đến trước ngày tới “điện nhà cô Phương” (phiếu 40);

– Vong của một người thanh niên xin với bố mẹ chăm lo cho vợ và đứa con tật nguyền. Dù rằng lúc còn sống, cuộc hôn nhân của vong không được bố mẹ thừa nhận (phiếu 80).

Có những người đã đi tới “điện nhà cô Phương” rất nhiều lần, như ở phiếu 88 ông Dương Quốc Đạt, một thương binh, có bà Cô Tổ là Dương Thị Ngoét đã truyền đạt và giao trách nhiệm hành nghề thuốc đông y gia truyền của họ Dương.

Cũng có người trên đường đi, nghe nói về “điện nhà cô Phương”, thử ghé qua vì muốn gặp vong, nhưng với tâm trạng chưa tin như ở phiếu 48 – một nữ doanh nghiệp người Thái Lan, cô Chămaiporm Chathanamuk. Vong bà mẹ về nhắn qua cô Phương; cô Chămaiporm đã ghi trong phiếu khảo sát và phát biểu (băng số 9, mặt B), đã xác nhận: cô Phương gọi đúng tên Chămaiporm và tên bố cô là ông Phít, vong cũng nói rõ bà chết do bệnh tim, chết đột ngột, không dặn dò gì và nói rõ trong túi cô Chămaiporm có bùa hộ mệnh.

Trên đây chúng tôi chỉ làm phần việc như là ghi chép lại những sự thực và chỉ những sự thực đang diễn ra ở “điện nhà cô Phương”. Sau khi một lần nữa, tôi nghe lại số đoạn băng để xem cách nói của vong (qua cô Phương) của những người đã khuất thuộc các lứa tuổi khác nhau từ em bé 8 tháng tuổi đến người già đã xa trần gian hàng 600 năm trước, người có trình độ học vấn trên đại học đến người còn làm lao động giản đơn hoặc nặng nhọc… thấy rõ (qua băng) cách nói thể hiện đúng tuổi tác, trình độ và sự hiểu biết của vong lúc còn sống.

Tất cả những người đến tìm vong có nhiều lứa tuổi, nhiều trình độ như tiến sĩ, giáo sư, bác sĩ, nhà buôn, làm ruộng, công nhân, nội trợ v.v… nhưng tất cả mọi người đều có chung một cảm nhận, và đó cũng là cảm nhận của những người được trực tiếp khảo sát.

Mọi người đều nhận thấy: “Thế giới tâm linh là có thật, đó là một thực tế khách quan, cần được các nhà khoa học nghiên cứu nghiêm túc. Chúng ta hãy bình tĩnh, khách quan lắng nghe những lời nhắn nhủ từ thế giới tâm linh để có cuộc sống nhân ái hơn, lương thiện hơn”.

Chúng tôi tin rằng, “Thời của những điều kỳ diệu sẽ tới. Khoa học sẽ làm nên những phát hiện lớn trong lĩnh vực vật chất” – lời của nhà tiên tri VANGA trong cuốn sách VANGA – những bí ẩn của nhà tiên tri (tác giả là Karaximira Xtolakora, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1997).

Viết xong, ngày 15 tháng 2 năm 2000
Người viết báo cáo

ĐINH LAN

(đã ký

Theo KNTL       

17 năm và những cuộc tìm kiếm vô vọng – Nhà thơ Bùi Minh Quốc viết

•Tháng Một 10, 2008 • Gửi bình luận

TP – “Lạ lắm ông ạ ! Ông cố thu xếp trở lại Quảng Nam đi, về Bình Sa gặp ông Năm Chiến đi!” Nhà văn Nguyên Ngọc bảo tôi thế. Rồi anh kể cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện với rất nhiều tình tiết ly kỳ, huyền bí, mà có thật, diễn ra trước mắt anh.

Nhà thơ Bùi Minh Quốc bên mộ vợ – nhà văn liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý

Kỳ I: 17 năm và những cuộc tìm kiếm vô vọng

Một ông tên là Năm Chiến vừa tìm được hài cốt người bạn anh, sĩ quan Sư đoàn 2 QK5, hy sinh đã lâu trên vùng núi Quế Sơn.

Chả là tôi cũng đã từng kể với Nguyên Ngọc việc tôi đi tìm không kết quả hài cốt vợ tôi, Dương Thị Xuân Quý, hy sinh tại thôn 2 (thôn Thi Thại) xã Xuyên Tân (nay là Duy Thành) huyện Duy Xuyên, trong một trận quân Nam Triều Tiên càn quét chốt giữ dài ngày, không được chôn cất, đến nay vẫn không biết thân xác bị vùi lấp chốn nào.

Tháng 4-1983, sau bao nhiêu công việc ngổn ngang của đất nước và gia đình thời hậu chiến, tôi mới thu xếp được chút thời gian và phương tiện để đi tìm Quý lần đầu tiên.

Cùng đi giúp tôi có các anh Đoàn Xoa, Nguyễn Bá Thâm, Vĩnh Quyền, Vũ Đình Thước trong Hội Văn Nghệ Quảng Nam – Đà Nẵng, nơi tôi vừa chuyển công tác từ tạp chí Văn Nghệ Quân Đội ngoài Hà Nội vào nhận nhiệm vụ Tổng biên tập tạp chí Đất Quảng được mấy tháng.

Chúng tôi về Thi Thại, một thôn nhỏ nằm trên bờ bắc sông Bà Rén. Phải vạch cỏ dại lút đầu người mới vào được đến cái giếng đất, là vị trí mà anh Hải và anh Mười, hai người cùng rúc hầm bí mật với Quý may mắn chạy thoát đã xác định Quý bị địch bắn, và chắc đã chết tại đây.

Sau năm 1975, mỗi lần về Thi Thại tôi không dám lần vào tới chỗ này vì khắp thôn chưa gỡ hết mìn, chỉ thắp hương bái vọng ở vành ngoài. Địch đánh phá quá ác liệt, Thi Thại trở thành thôn trắng dân từ giữa năm 1968, người chạy xuống thôn 3, xuống Xuyên Thọ, người chạy ra Hội An, Đà Nẵng hoặc tứ tán đi chẳng biết những đâu.

Ban Tuyên huấn huyện Duy Xuyên hồi ấy đóng cơ quan tại cái xóm trắng dân um tùm cỏ dại này, và đương nhiên phải gài rất nhiều mìn khắp các ngả để phòng vệ, bình thường thì làm việc trong mấy căn hầm tránh pháo, khi địch lùng sục càn quét thì xuống hầm bí mật.

Các nhà văn Nguyên Ngọc, Nguyễn Chí Trung, Đoàn Xoa cùng các đồng nghiệp văn nghệ Khu 5 và Quảng Nam trong buổi lễ cải táng nhà văn liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý
Quý từ trên Khu xuống, cùng sống và làm việc với anh chị em tuyên huấn Duy Xuyên, sau chuyến đi Xuyên Hoà trên vùng tây của huyện trở xuống đây đang tranh thủ ngồi viết thì gặp trận càn.

Đêm 8/3/1969, Quý theo Mười (du kích xã), Hải (đội viên đội vũ trang tuyên truyền huyện) từ dưới hầm bí mật bò lên tìm cách thoát khỏi vòng càn, ra tới góc vườn có cái giếng đất thì Hải đi trước bị vướng mìn sáng, cả ba vội nhảy xuống giếng, địch xộc lại bắn, Quý trúng đạn gục ngã dưới chân Mười, Hải bị thương.

Thế nhưng Mười và Hải cũng đã kịp ném lựu đạn phản kích rồi Mười cõng Hải chạy thoát. Quý nằm lại dưới giếng. Mười kể với tôi: “Chị Quý đứng phía vách giếng đối diện với luồng đạn, chị bị vào ngực khuỵu xuống ngay dưới chân em, giếng lại có nước đến gần thắt lưng, chắc là chị chết dưới giếng anh ạ”.

Căn cứ vào đó, tôi đinh ninh nếu đào chỗ giếng đất lên chắc sẽ tìm thấy Quý. Phát hết cỏ, giếng bị lấp đất lâu ngày nhưng vẫn hiện rõ vành miệng và một phần thành giếng thoai thoải. Cả một ngày trời chúng tôi đào xuống tận lớp đất đen, đào thật rộng ra bốn phía mà chẳng thấy gì ngoài một chiếc mâm nhôm.

Bà Dũng nhà ở liền kề bảo đó là chiếc mâm bà ném xuống để giấu địch trong một trận càn từ đầu năm 1968, nếu Quý nằm dưới giếng, chắc chắn hài cốt phải ở trên lớp đất có cái mâm.

Cuối cùng, tôi đành hốt một ít đất dưới đáy giếng bỏ vào chiếc tiểu sành đem gửi ở nghĩa trang liệt sĩ xã Hoà Phước ven đường số 1 gần TP Đà Nẵng để có chỗ đi về thắp hương vọng niệm.

Từ đó lòng dạ hoang mang chẳng biết làm sao tìm được Quý. Những năm ấy chưa thấy xuất hiện những người có khả năng đặc biệt tìm được hài cốt bị thất lạc, thậm chí ý niệm về điều đó cũng chưa có, ít nhất là trong tôi.

Cho đến khi nghe câu chuyện ly kỳ của Nguyên Ngọc, tôi lại khấp khởi hy vọng. Ai nói thì tôi còn nghi hoặc, chứ Nguyên Ngọc thì tôi không thể không tin. Toàn bộ câu chuyện anh kể cho tôi nghe, sau đó anh đã viết thành bài đăng trên tạp chí Thế giới mới.

Thế rồi, một sáng sớm đầu tháng 4 năm 1995, tôi có mặt tại sân nhà ông Năm Chiến, ở thôn Bình Sa, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Có được buổi sáng này cũng không dễ.

Từ một tuần trước, tôi phải nhờ anh Ngọc, Phó Bí thư Huyện ủy Thăng Bình, cũng là người cùng xóm và thân thiết với ông Năm Chiến, đưa về tận nơi giới thiệu để xin chiếu cố tôi ở xa mãi trên Đà lạt, được xếp vào diện ưu tiên, chứ nếu chờ lần lượt theo thứ tự thì chắc chắn phải cả tháng trời.

Quanh sân nhà ông Năm Chiến và cả bên sân nhà hàng xóm kéo ra tới ngã ba con đường cát, người chờ đợi rất đông. Nhiều người trọ luôn ở đây, trong mấy túp nhà người ta dựng vội cho thuê, không có giường, chỉ mắc võng. Dịch vụ đã kịp mở ra. Kèm theo nhà trọ là mấy cái quán lợp tranh bán bún, mì, cà phê, bia, nước ngọt.

Với rất nhiều hy vọng ở khả năng đặc biệt của ông Năm Chiến mà báo chí và lời đồn đại đã đưa tên tuổi lan đi khắp nước, một người anh cọc chèo với tôi, anh Nguyễn Dy, liền cất công từ Hà Nội vào, dù lúc này anh đã quá lục tuần, lại chẳng lấy gì làm khoẻ vì một tai nạn giao thông.

Mấy hôm sau, bé Ly, con của tôi và Quý, đang rất bận vì nhiệm vụ phóng viên ở báo Phụ Nữ TP HCM cũng cố thu xếp công việc để bay ra. Mọi người thì thầm truyền tin cho nhau: Ông Năm Chiến tuần trước được đón bay vào Sài Gòn tìm được nhiều mộ liệt sĩ lắm, vừa mới về hôm kia đã lại có xe đón đi Quảng Ngãi, sáng nay sẽ về.

Mọi cặp mắt đều chăm chăm ngóng ra con đường cát, nhẫn nại chờ đợi. Cũng như anh em tôi, tất cả những người tới đây đều trĩu nặng trong lòng nỗi day dứt suốt bao năm về một người thân, về nhiều người thân đã mất, phần lớn vì chiến tranh, mà hài cốt còn nằm đâu đó, không biết chốn nào…

Theo chỉ dẫn của một người đã tới đây nhiều lần, tôi viết sẵn một tờ đơn, nội dung ghi rõ: “… Kính mong Thầy giúp cho tìm hài cốt vợ tôi là liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý, quê quán thôn Mễ Sở, huyện Khoái Châu, tỉnh Hải Hưng, hy sinh đêm 8/3/1969 tại thôn 2 xã Xuyên Tân (nay là Duy Thành) tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng”.

Một chồng đơn khá dày, phải đến hàng trăm tờ, đặt trên chiếc ghế đẩu dưới cái mái tôn vẩy ra che tạm bên hông nhà dùng làm quán cà phê. Trong lúc chờ đợi, tôi nghe hóng những chuyện người ta kể với nhau về các cuộc tìm mộ hết sức ly kỳ của ông Năm Chiến.

Tình cờ tôi gặp lại ở đây một người quen cũ, anh Lê Tấn Minh, trước kia là Trưởng Ban Tuyên huấn Tỉnh Đoàn Quảng Nam – Đà Nẵng, sau chuyển sang phụ trách lực lượng TNXP.

Anh Minh kể với tôi, chính mắt anh đã chứng kiến ông Năm Chiến chỉ dẫn tìm thấy một bộ hài cốt dưới nền ngôi nhà trụ sở cơ quan anh đóng tại số 37 Lê Lợi – Đà Nẵng. Tôi càng thêm tin tưởng và hy vọng.

Khoảng 7h30 ông Năm Chiến về. Đây là giây phút đầu tiên tôi được nhìn thấy con người huyền thoại này. Đó là một người đàn ông khoảng trên dưới bốn mươi, dáng gầy gầy dong dỏng cao, nước da ngăm đen, gương mặt dầu dãi như tất cả những người nông dân vùng cát miền Trung vốn chịu nhiều vất vả.

Ông mặc bộ đồ âu giản dị, bên thắt lưng có đeo chiếc bóp hoặc bao kính gì đó, trên vai vắt chiếc khăn mặt. Ông thong thả lấy khăn lau mồ hôi, cúi chào mọi người rồi bước vào ngôi nhà ngói nhỏ ba gian, phía trái có thêm hai gian nhà ngang cũng lợp ngói. Gian giữa ngôi nhà chính là nơi đặt bàn thờ. Trên dãy bàn kê dọc trước bàn thờ bày đầy đồ cúng.

Ông Năm Chiến bước lại bộ phản trải chiếu hoa cạnh bàn thờ ngồi nghỉ, lưng dựa vào cửa sổ. Một bà cụ già khép nép đến bên ông, hai tay trịnh trọng trình một tấm giấy cứng khổ lớn, nài nỉ gì đó. Ông Năm Chiến đọc tấm giấy, giọng khổ sở: Trời, bác đem nguyên cả bản gốc tấm bằng này đến đây làm chi, sao bác không phô-tô ra ?…

8h30, ông Năm Chiến xếp một chồng đơn lên bàn thờ rồi thắp hương khấn vái rất lâu. Khấn xong ở bàn thờ trong nhà, ông ra thắp hương ở bàn thờ ngoài trời nơi mép sân. Tiếp đó, ông trở vào ngồi trên chiếc ghế cạnh đầu bàn kê dọc trước bàn thờ trong nhà. Ông ngồi cúi đầu, hai khuỷu tay chống lên mặt bàn, trán gục vào đôi bàn tay chắp lại.

Bắt đầu giờ phút mà tôi cảm thấy là nghiêm trọng. Trong nhà ngoài sân im phăng phắc, không khí linh thiêng bao trùm. Độ hơn mười phút sau, cả người ông Năm Chiến bỗng giật mạnh, giật mạnh. Một âm thanh gì đó như cuộn từ dưới bụng bật lên thành tiếng “ợ”… tựa hồ ông muốn ói mửa.

Những cái giật và “ợ” theo nhau dồn dập hơn, mạnh hơn. Có cảm giác thân xác ông đang bị hành bởi một sức mạnh bí ẩn nào đó. Rồi ông loạng choạng đứng dậy, cặp mắt trợn trừng chỉ thấy lòng trắng, miệng nhể dãi, ông chậm chạp bước từng bước ra hàng hiên, hai cánh tay đưa về phía trước, đôi bàn tay xòe như cánh ăng-ten đang bắt một làn sóng vô hình.

Bằng một giọng trọ trẹ như giọng Huế hoặc Nghệ Tĩnh nhưng phát âm hơi khó nghe, chắc chắn là khác hẳn giọng Quảng Nam ông nói lúc bình thường, ông bắt đầu gọi tên một người trong lá đơn đầu tiên trên xấp đơn được đặt lên bàn thờ khi nãy – xấp đơn lúc này vẫn nằm trong bàn thờ. Chính xác ra, không phải ông gọi tên, mà gọi họ.

– Họ…Nguyện !… Họ…Nguyện !…(họ Nguyễn)

Nhịp độ tiếng gọi chậm, nhấn từng âm một.

Theo cảm nhận bấy lâu nay của mọi người và họ nói lại cho tôi hay, thì đó không phải là tiếng gọi của ông Năm Chiến, mà là tiếng gọi của Ông. Ông đây nghĩa là một hồn thiêng nào đó – có lẽ từ thời xa xưa, phút này đã về nhập vào thân xác con người có tên là Năm Chiến.

Tôi cũng có cảm nhận mang máng thế, nhưng cũng không dám hoàn toàn xác quyết. Thật khó diễn tả trạng thái này. Con người duy lý và con người tâm linh của tôi tranh chấp. Một mặt thực sự tin vào sự linh thiêng và thành tâm chờ đón điều kỳ diệu sắp hiển hiện, một mặt cái quán tính duy lý vẫn hoạt động và tỉnh táo quan sát.

-Họ…Nguyện !…

Thân chủ họ Nguyễn đã đứng chực sẵn gần đó, vội bước tới bên ông Năm Chiến, tay cầm giấy bút, ghi vội những lời Ông nói. Một người khác đưa chiếc máy ghi âm sát lại để hỗ trợ cho cây bút khó ghi kịp.

“Nhà ngươi rọ chưa ? Nhà ngươi rọ chưa?” – Ông luôn nhắc lại câu hỏi đó, sau mỗi đoạn ra lời chỉ dẫn. Rồi Ông (trong thân xác ông Năm Chiến) quay vào nhà, đến bên bàn. Thân chủ trải vội tờ giấy trắng và đưa Ông cây bút. Ông vẽ sơ đồ chỉ dẫn tìm hài cốt…

Hết buổi sáng, xong được mười một trường hợp.Chưa đến lượt tôi.

Buổi chiều, đơn của tôi nằm ở vị trí đầu tiên. Thật căng thẳng những giây phút chờ đợi ông Năm Chiến thắp hương, khấn, ngồi tĩnh tại bên bàn tựa trán trên hai bàn tay chắp lại để Ông xuất hiện qua những cơn giật, rồi rời chỗ bước loạng choạng ra đứng trước thềm ngửa mặt lên và gọi.

– Họ…Bùi ! Họ…Bùi !

Tôi vội bước lại sát bên, giấy bút sẵn sàng, hồi hộp chờ nghe và ghi từng lời ông. Những lời ông nói cho tôi, nghe rất khó, chỉ rõ nhất là hai tiếng “họ Bùi” và mấy tiếng “nhà ngươi rọ chưa?” nhắc đi nhắc lại, cùng mấy tiếng lướt lướt mơ hồ mà tôi đoán là hình như nói về một dòng nước, hoặc nước, hoặc chỗ có nước và một bờ tre nào đó.

Những tiếng mơ hồ ấy khiến tôi liên tưởng ngay đến dòng sông Bà Rén, cái giếng đất, cái bờ tre, những hình ảnh gắn liền với những giây phút cuối cùng của Quý.

Ông Năm Chiến loạng choạng bước trở lại chỗ đầu chiếc bàn vừa ngồi khi nãy. Tôi biết đây là lúc vẽ sơ đồ như từ sáng tới giờ tôi thấy ông đã làm cho mọi người, vội tiến đến đặt mấy tờ giấy trắng và cây bút lên mặt bàn. Ông vẫn đứng, cầm lấy bút và vẽ rất nhanh.

Mấy giây sau tôi đã có một tấm sơ đồ. Ba vệt loằng ngoằng cùng chiều như làn sóng chạy chéo trang giấy. Một vệt nữa cũng cùng chiều nhưng làn sóng nhỏ hơn, mau hơn. Cách ra một chút là một ô hình thang dài, phía cạnh nhỏ không thẳng mà vòng cung, bên trong có một chấm nhấn đậm và một gạch ngắn.

Kề bên hình này là một khoanh tròn nhấn đi nhấn lại rất đậm, liền kề là một cái gạch một đầu nhấn đậm từ đó toả ra ba nét toé ngắn. Sau cùng là con số 1,2m viết hơi to hơn mấy hình kia. Thú thực là nhìn vào đó rất khó hiểu, tôi chỉ suy đoán bằng sự liên kết với những ấn tượng đã có.

Tôi chỉ hình dung thấy dòng sông Bà Rén, bờ tre và cái giếng đất. Nhưng đối chiếu với thực địa thì lơ mơ lắm. Con số 1,2m thì chắc là chỉ khoảng cách, nhưng chịu không thể xác định đó là khoảng cách giữa vật chuẩn nào với chỗ cần phải đào, hay là phải đào sâu 1,2m?

Tôi muốn hỏi lại để có được một lời giải thích rõ hơn, nhưng dường như bị “ám” bởi cái chất huyền bí của dạng ngôn ngữ âm âm dương dương lúc ấy nên tự nhiên tôi ngại ngùng.

Trên đường trở lại Thi Thại, tôi và anh Dy cùng xem xét phân tích bản sơ đồ rồi cùng xác định: chỗ được khoanh tròn đậm là cái giếng đất, cứ đào sâu 1,2m và sâu hơn nữa, rộng ra bốn phía 1,2m và rộng hơn nữa. Cả một ngày đào không thấy gì.

Thực ra chúng tôi đã lặp lại việc đào tìm của năm 1983. Hôm sau, tôi và anh Dy lại vào Bình Sa, lại đặt đơn xếp hàng chờ đến lượt. Khi đến lượt tôi, được nghe chỉ dẫn như sau, tôi ghi lại mấy câu đáng chú ý nhất : “… từ dưới hầm… mái tóc quá dài vướng cành cây…… trúng chất sáng……giặc bắn chết trong hầm……nằm ven sông, hướng đông bắc……Đại Hàn chôn……khai quật chưa đến……trên 1,2m…”.

Lời chỉ dẫn này khiến tôi bán tín bán nghi, bởi Mười và Hải đều khẳng định họ đã ra khỏi hầm cùng nhảy xuống giếng, Quý bị địch bắn hạ dưới giếng, các chi tiết này cùng chi tiết trúng chất sáng (tức là vướng mìn sáng) thì tôi đã viết bài đăng báo in sách nhiều lần nhiều người đã biết, không phải là một thông tin mới.

Cái thông tin mới mà ông đưa ra thì lại sai, bởi mái tóc của Quý là mái tóc ngắn. Một thông tin mới nữa là Đại Hàn chôn khiến tôi không thể không nghĩ đến tình huống: sáng hôm sau cái đêm định mệnh ấy, địch kéo xác Quý từ dưới giếng lên và vùi lấp ở đâu đó. Nhưng ông Năm Chiến (tức Ông) lại nói: Nằm ven sông, hướng đông bắc…

Quả là cái giếng đất nằm ở hướng đông bắc con sông Bà Rén vốn chảy từ tây xuống đông, tại quãng này có một khúc quanh hơi chếch về phía nam, nhưng từ giếng đất tới bờ sông khoảng cách khá xa, dễ đến 300m, vậy nằm ven sông là ven như thế nào và lấy vật chuẩn nào để xác định được nơi cần đào tìm?

Chờ lúc ông Năm Chiến ở trạng thái bình thường, tôi đề nghị được đón ông ra Thi Thại để trực tiếp chỉ dẫn tìm kiếm trên thực địa nhưng ông bảo thời gian này đang có quá nhiều người sốt ruột đợi được phục vụ ngay, phải chừng tháng rưỡi hai tháng nữa mới đi được.

Về lại Thi Thại giữa lúc buồn phiền bối rối thì mấy anh em trong xóm đang giúp tôi đào tìm, mách: ở xã Bình Tú (cũng thuộc huyện Thăng Bình) có ông thầy Tám hay lắm, không thua gì ông Năm Chiến nhưng ổng mới xuất hiện nên ít người biết, cứ vào mời ổng ra tìm trực tiếp tại đây thế nào cũng thấy. Tôi vội phóng vào Bình Tú.

Hỏi thăm mãi mới tới nơi. Thầy Tám có lẽ chỉ khoảng 35-36 tuổi gì đó chứ không già như tôi hình dung qua cái tiếng thầy mà người ta tôn xưng. Ông sống trong một ngôi nhà cổ lợp ngói âm dương tàn tạ giữa khu vườn rộng đầy lá rụng.Vắng vẻ, quạnh hiu. Gọi mãi mới thấy ông từ vườn sau bước ra, đoạn đi rửa chân tay rồi tiếp tôi.

Nghe tôi trình bày hoàn cảnh và nguyện vọng, ông trịnh trọng mặc áo lễ nhận lễ vật đặt lên bàn thờ thắp hương và cúng. Ông bảo tôi ngồi bên cạnh ông, hơi lui lại đằng sau một chút, trong lúc ông đọc một bài niệm gì đó. Xong, ông bảo:

– Chỗ này, đông bắc có dòng thủy, nam có dòng thủy, bắc có dòng thủy, có bờ tre, đào sâu 9 tấc là thấy.

Tôi ngẫm nghĩ: Đông bắc và bắc có dòng thủy thì quan sát trên thực địa chưa thấy, trừ phi đó là mạch nước ngầm, còn nam có dòng thủy thì đó chính là dòng sông Bà Rén ở cách những 300m, bắc có bờ tre thì quả thật phía bắc của giếng đất cách một quãng ngắn là cái bờ tre còn lại từ thời Quý hy sinh, hiện anh em đã đào tới gần sát chân tre.

Tôi mời ông ra thực địa để chỉ dẫn trực tiếp, ông nhận lời và bảo lúc này đã chiều muộn, về sắm lễ, gồm vàng mã, hoa quả và rượu, ngày mai 1h30 chiều đón ông, 3h làm lễ. Ông dặn thêm: Ngày mai khi vào đón nhớ đem theo một nắm đất chỗ đang đào.

Hôm sau, tôi vào đón ông lúc 11 giờ, sớm hơn dự định, để mời ông ăn trưa ở thị trấn Hà Lam (trên đường đi) cho tiện. Ông thấy vậy cũng được. Trước khi đi, ông đặt nắm đất tôi đem đến lên bàn thờ thắp hương cúng.

Ăn trưa xong, trên đường ra Thi Thại, ngồi sau xe máy tôi chở, có lúc ông Tám ghé tai tôi bảo: Kỳ này tôi tìm được chị cho anh, anh viết bài đăng báo nghen ! Nghe ông nói thế, tôi không khỏi gợn lên một chút rầu lòng nghi hoặc nên chỉ ừ ào cho qua chuyện.

Tuy vậy, tôi lại tự trấn an: Lúc này là lúc ông Tám đang trong trạng thái bình thường với những ham muốn bình thường, còn cái khả năng đặc biệt thì đang chìm sâu và chỉ xuất hiện vào một khoảnh khắc nào đó, nhờ vào một cơ duyên nào đó, phụ thuộc vào những yếu tố nào đó mà mọi người, kể cả ông Tám chưa thể biết được.

3 giờ chiều, ông Tám thực hiện các nghi lễ cúng cầu bên miệng cái hố anh em đang đào. Nghi lễ này lúc đầu cũng giống như chiều hôm trước ở nhà ông. Nhưng tiếp theo phải làm một công đoạn khác hẳn.

Sau khi ông buông một lời phán: “Chỗ này có người chết treo!” liền bảo tôi đến ngồi vào chỗ ông đang cúng. Ông tháo chiếc khăn sa tanh vàng đang quàng trên cổ quàng sang cổ tôi và bảo hai người ngồi hai bên từ từ siết lại như động tác thắt cổ. Một trong hai người ấy là anh Nguyễn Bá Thâm sau này kể lại rằng tôi bị thắt đến tím cả mặt mày.

Tôi thì lúc ấy tất nhiên chẳng thể biết mặt mũi mình ra sao, chỉ cố chịu đựng cái cảm giác ngộp thở để mong sẽ có một sự xuất thần kỳ diệu nào đó ở ông Tám.

Còn ông Tám cầm bó nhang nghi ngút khói lầm rầm khấn khứa rồi đột ngột hô “thôi!” đồng thời vừa ném mạnh bó nhang vừa hô tiếp “đào chỗ đó!”, tay chỉ về phía bó nhang vừa rơi.

Chỗ bó nhang rơi là góc miệng cái hố đã được đào đến gần sát chân tre. Mọi người lập tức thay nhau vào việc. Trước hết phải bươi hết chỗ đất đã tấp thành vồng lớn bên miệng hố, chặt tre, đánh hết gộc tre để mở thêm mặt bằng. Đào rộng ra, đào sâu xuống.

Tôi nhớ lại lời ông Tám nói chiều qua: Đào sâu 9 tấc là thấy và hồi hộp theo dõi từng nhát cuốc, từng nhát xẻng. Nhưng đã quá 9 tấc, quá 1m cũng chưa thấy gì. Cứ đào tiếp, sâu đến chạm cả mạch nước. Tôi mừng thầm: Bắc có dòng thủy, hoá ra là có thật.

Nước dềnh lên rất nhanh. Phải đi thuê gấp một chiếc máy bơm hút cạn nước rồi lại đào tiếp. Bùn lệt sệt. Phải múc từng xô bùn dòng dây kéo lên. Bỗng tôi nghe tiếng reo khẽ từ dưới hố sâu :

– Có xương nè ! Tôi nhoài người nhìn xuống hố. Rồi lại nghe tiếng nói: Mà tuồng như…như… Sao bự quá vậy hè? Nguyễn Bá Thâm ngồi cạnh tôi đón lấy coi, xì một tiếng thất vọng: È, xương bò!

Một lát sau, nghe ở dưới đáy hố tiếng cuốc chạm kịch kịch. Cuốc, xúc, moi, hối hả. Rồi thì anh em lôi ra một tấm ván ngấm bùn thâm đen. A, thôi rồi, chắc đây là ván lót hầm bí mật, hình như cái hầm này là của cánh Hội An.

Một người lớn tuổi, hẳn thuộc thế hệ đã tham gia kháng chiến và hiểu biết tình hình địa phương thời ấy, nhận xét. Tôi cũng đã được biết trên địa bàn thôn Thi Thại này thời ấy có nhiều đơn vị đứng chân, nào Tuyên huấn Duy Xuyên, dân y Duy Xuyên, thị đội Hội An… Hầm bí mật thường đào ngầm chân tre và hầm của đơn vị nào đơn vị nấy biết. Liệu còn gì trong hầm không? Biết đâu…

Anh em moi tiếp và đào rộng ra nữa. Nhưng không tìm được gì ngoài tấm ván đã được lấy lên.Trời đã xẩm tối.Tôi và anh Dy quyết định kết thúc công việc trong nỗi thất vọng. Tôi đưa ông Tám trở về Bình Tú. Dọc đường, tôi an ủi ông: Ngay như ông Năm Chiến thì hiệu suất tìm được cũng chỉ 70 – 80%.        

Kỳ II: Ông Đặng Xuân Ba, người chỉ đúng nơi Quý nằm

Ra tới Đà Nẵng, việc đầu tiên là tôi gặp nhà điêu khắc Phạm Hồng, người bạn thời kháng chiến, nhờ anh phác sơ trên giấy một tấm bia tưởng niệm dự định sẽ dựng bằng đá Ngũ Hành Sơn cỡ nho nhỏ phù hợp với số tiền mà bố con tôi có.

– Phác thảo thì dễ thôi, để làm sau, mà có lẽ cũng chả cần, bây giờ đi tìm đá trước đã.

Phạm Hồng lấy xe máy chở tôi qua bên kia sông Hàn vào Hoà Hải, nơi có làng đá Non Nước nổi tiếng. Vòng đi vòng lại vài lần, bỗng Phạm Hồng ghé vào dừng xe trước một cửa hàng lớn có cái bảng hiệu rất độc đáo NGUYỄN VIỆT MINH, quay lại vỗ vai tôi:

– Chu cha, nhìn này, cái khối đá …

Chếch bên mép cửa hàng, trên nền cát lề đường, một khối đá trắng đặt nằm có dáng tự nhiên rất đẹp, hình trụ, một đầu to thon dần về phía đầu nhỏ, vừa nhìn đã thấy mê. Mê, nhưng ngại. Vì nó quá lớn, đường kính đáy phải đến trên nửa mét, dựng lên thì cao phải đến trên 2 mét. Tôi thì thầm:

– Thích quá, nhưng làm sao mình mua nổi.

– Thì cứ hỏi giá thử coi.

Chúng tôi bước vào cửa hàng, gặp ngay ông chủ ra tiếp. Ông có gương mặt phúc hậu, đượm chút phong trần, trạc tuổi ang áng cũng ngang tôi với Phạm Hồng. Ông cho biết khối đá ấy giá 2 triệu rưởi. Tôi và Phạm Hồng im lặng nhìn nhau.

Phạm Hồng thăm dò: Có bớt được không? Ông chủ bảo không bớt được và giải thích rằng toàn bộ khu vực Ngũ Hành Sơn đã bị cấm khai thác đá, khối đá kia là ông mua từ Thanh Hoá chở vào định sẽ xẻ ra làm tượng nhỏ.

Tôi ghé tai Hồng bảo khẽ: Ông ấy có bớt chắc cùng lắm cũng chỉ vài trăm ngàn, mà chừng đó thì mình cũng chẳng mua nổi.

Hồng bảo, ừ, nhưng mà nó đẹp quá, đúng với mong muốn của mình quá, chỉ cần để nguyên thế thuê thợ khắc văn bia vào, đích thân Hồng sẽ chạm phù điêu chân dung Quý bên trên văn bia rồi dựng lên là được một bia tưởng niệm đẹp và độc đáo hết ý.

Quả thật sau cái phút nhìn thấy khối đá kia hai chúng tôi như bị hớp hồn, không còn thấy một khối đá nào hấp dẫn nổi mình. Hồng lại gạ bớt. Ông chủ bảo bớt cho hai trăm ngàn, và hỏi mua để làm gì?

Trong lúc tôi đang thầm tính đến việc sẽ đề nghị Nhà xuất bản Đà Nẵng tái bản tác phẩm của Quý và ứng trước nhuận bút để bù đắp vào khoản thiếu hụt thì Hồng giới thiệu về tôi với ông chủ, về sự hy sinh của Quý và hoàn cảnh của tôi hiện nay. Nghe xong ông chủ bảo bớt hẳn 5 trăm ngàn, chỉ lấy tròn 2 triệu…

Từ đấy hàng năm tôi đều cố thu xếp mọi việc ở Đà Lạt để về đây một hai lần. Lòng tôi vẫn mơ màng Quý cũng nằm quanh quất đâu đây thôi. Tôi gặp làm việc với UBND xã Hoà Phước xin dỡ bỏ ngôi mộ tượng trưng tại NTLS đằng ấy.

Nhân tiện xin kể thêm, suốt thời gian dựng bia, hễ cứ nghe anh em mách bảo ở đâu có “thầy” là tôi lại tranh thủ tìm đến. Chẳng hạn một buổi tối tôi được dẫn sang Duy Vinh, xã liền kề Duy Thành. Trong ngôi nhà tôn nền đất trống trải, lạnh lẽo và tối om, thấy một ông “thầy” còn trẻ cùng người “phụ tá” ngồi cạnh chiếc bàn gỗ mộc có chiếc đèn dầu liu hiu.

Sau mấy thủ tục đầu tiên (đặt một món tiền nhỏ vào cái đĩa và thắp nhang), thì ông “thầy” duỗi chân vặn mình ợ oẹ, liếc qua cũng thấy ngay là động tác giả, miệng xổ một tràng âm thanh quái dị ra điều là “hồn” đang “phán” đấy, vụng về đến mức tôi cố nén để khỏi phì cười.

Gã “phụ tá” phiên dịch rằng “hồn” bảo nhà ngươi phải cúng một chiếc Dream đời mới thì “hồn” chỉ chỗ cho. Tôi ậm ừ gật gật làm bộ lắng nghe rồi vội cáo lui. Đại khái thế, cái tâm trạng khắc khoải thường trực đã cuốn tôi đến vài ba chỗ hắc ám như thế ở Duy Xuyên, Điện Bàn thời gian ấy.

Mỗi lần về đây tôi được vợ chồng Võ Bắc cho biết, vào các ngày lễ, tết, cơ quan chính quyền, đoàn thanh niên, phụ nữ, văn nghệ địa phương đều có đến đặt vòng hoa và thắp hương tưởng niệm Quý.

Việc hương khói thường xuyên thì tuy không nghe kể nhưng tôi biết vợ chồng Bắc luôn chăm lo chu đáo. Đời sống nhà Bắc năm sau đều khá hơn năm trước, Bắc khoe thế. Và đặc biệt, sau ba đứa con gái đầu, năm 1999 vợ Bắc bỗng sinh thêm được thằng con trai…

Chiếc cặp tóc tìm thấy cùng với hài cốt nhà văn Dương Thị Xuân Quý

Tôi ở lại Thi Thại thêm mấy ngày và tìm gặp anh Ba Lữ (Võ Thế Lữ), nguyên xã đội trưởng xã Xuyên Tân (Duy Thành) vào thời gian Quý hy sinh. Tôi gặp anh vì một việc khác, không ngờ lại nhận được một thông tin rất giá trị.

Anh Ba Lữ kể, anh là người đầu tiên dẫn anh em du kích vào thôn 2 (Thi Thại) ngay sau khi bọn Nam Triều Tiên rút đi. Trước đó anh đã được nghe anh em báo cáo khu vực Thi Thại có hai người hy sinh là chị Quý nhà báo và ông Hiểu cán bộ thôn.

Ông Hiểu thì tìm được ngay nhờ thấy một nấm đất đắp sơ sài trên có cắm cây thập giá buộc bằng que tre, còn chị Quý thì không thấy đâu, nhưng gặp một chỗ ruồi bu rất nhiều liền tổ chức đào bới mà cũng chẳng thấy gì ngoài những cành tre gộc tre chồng chất rối bời.

Chi tiết này thật mới đối với tôi, hồi giờ chưa từng nghe ai nói. Tôi vội chở anh Ba Lữ tới thực địa nhờ anh chỉ cho cái chỗ đặc biệt đáng chú ý ấy, và nhờ Bắc, Chính đào ngay.

Không đầy 30 phút sau, ở độ sâu chừng 60-70cm, dưới lòng một giao thông hào đã bị lấp, tôi tìm thấy một tấm dù hoa màu cỏ úa. Chỗ ấy chỉ cách vị trí dựng bia tưởng niệm (giếng đất cũ) hơn 5m.

Chị Nguyễn Thị Một, nay là Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Quảng Nam, là người sống cùng những ngày cuối của Quý, do đi công tác trước trận càn nên thoát được, đã xác nhận “đó chính là tấm dù chị Quý đã dùng”.

***

Sau những lần tìm kiếm vô vọng từ năm 1983 đến năm 2000, cuối cùng mới có cơ duyên cho tôi gặp được đúng người cần gặp, đó là anh.

Đầu năm 2006 anh Nguyễn Trung An một lần đến nhà tôi, bảo:

– Ông Quốc à, có việc rất quan trọng tôi cần nói với ông…

Anh Nguyễn Trung An hơn tôi gần chục tuổi, trung tá cựu chiến binh, nguyên Phó Chủ tịch thường trực Hội Văn nghệ Lâm Đồng, chúng tôi là đôi bạn vong niên thường qua lại nhà nhau chuyện trò về văn chương, thế sự. Nghe anh nói vậy với một giọng thì thầm hơi có vẻ bí mật, tôi hồi hộp chờ đợi.

– Ông Quốc có nhớ ông Ba, bố vợ thằng Dũ không ?

– Nhớ…

– Ông Ba thế mà có khả năng đặc biệt lắm đấy, ổng đã tìm được nhiều mộ liệt sĩ bị thất lạc, nhưng rất kín tiếng không cho đưa tin. Ông Ba có ngỏ ý riêng với tôi rằng muốn giúp anh Quốc tìm chị Quý, nhờ tôi nhắn: Khi nào anh Quốc sắp xếp được thời gian về Quảng Nam thì cho biết để ông ấy cùng đi.

– Vậy à? Hiện nay anh Ba đang ở đâu?

– Ông bà ấy đã chuyển về Sài Gòn lâu rồi, có nhà dưới ấy rồi, nhưng riêng ông Ba vẫn thuê một căn phòng trong khu tập thể cơ quan ở Đà Lạt đây, bên phường 10, để làm trạm liên lạc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ, bữa nào ông thong thả tôi đưa sang ổng chơi.

– Dạ, dạ… tôi còn bận ít ngày, để bữa nào rảnh tôi sẽ điện sang anh.

Khoảng mươi hôm sau, một buổi tối, anh An dẫn tôi tới nhà anh Ba. Tôi quen anh Ba từ ngót hai chục năm trước. Ấy là do con rể anh, nhà báo Lưu Hữu Nhi Dũ, lúc ấy vừa tốt nghiệp đại học về làm ở cơ quan tôi, Hội Văn nghệ Lâm Đồng.

Từ khi vợ chồng Dũ chuyển xuống Sài Gòn tôi ít có dịp gặp lại, và anh Ba thì hoàn toàn không gặp nữa từ sau một lần Dũ đưa tôi sang uống rượu với anh bên khu tập thể của nhà nghỉ Công đoàn tỉnh, nơi anh đang công tác sau khi chuyển ngành từ quân đội ra.

Tối hôm đó gặp lại anh Ba tôi mới được biết tên họ đầy đủ của anh là Đặng Xuân Ba. Anh kể, anh người họ Đặng Xuân ở Nam Định, ông nội vào làm quan ở Điện Bàn thời triều Nguyễn, cha lấy vợ Quảng Ngãi, định cư ở Quảng Nam, anh tham gia bộ đội đánh Pháp tại đây rồi tập kết ra Bắc.

Năm 1965 lại đi B, thuộc một đơn vị thông tin của Bộ Tổng hoạt động trên chiến trường Tây Nguyên. Anh cũng kể, vợ anh, chị Dương Thị Tuyết Minh với Dương Thị Xuân Quý vợ tôi có thời gian cùng học phổ thông cấp 2 ở Hà Nội, vẫn nhớ và hay nhắc lần Quý lên Thái Nguyên công tác đã đến đơn vị thăm Minh khi chị đang trong quân ngũ.

Chúng tôi bàn việc đi tìm Quý.Tôi kể lại vắn tắt về các lần tìm kiếm trước đây. Tôi cũng không giấu việc các chị ruột của Quý đã đến gặp cô Phan Thị Bích Hằng để “gọi hồn”, được nghe lời Quý qua cô Hằng bảo đừng tìm nữa, từ đó tôi và gia đình quyết định ngừng tìm kiếm.

Anh Ba yên lặng một lát rồi hỏi tôi về mọi chi tiết trong những giây phút cuối của Quý. Tôi kể lại tất cả những gì tôi đã được nghe từ Mười và Hải.

Tôi cùng anh Ba xem lại công việc của mỗi người để có thể chắt ra một quãng thời gian hợp nhau cùng về Quảng Nam. Lịch công việc của anh Ba rất sít sao, dày đặc lời hẹn với các gia đình liệt sĩ trên nhiều vùng đất nước. Thế rồi sau mấy lần nữa liên lạc qua điện thoại, chúng tôi thống nhất sẽ lên đường ngày 1/8/2006.

Anh Ba đi xe của vợ chồng anh Thanh, một gia đình liệt sĩ có người em vợ hy sinh ở khu vực đèo Mang Giang, tỉnh Gia Lai, và người anh ruột hy sinh ở một xã thuộc vùng tây Duy Xuyên. Cùng đi có anh Nguyễn Đình Mai, đại tá cựu chiến binh, nguyên thành đội trưởng thành đội Đà Lạt.

Tôi bảo anh Ba cứ đi đèo Mang Giang trước (xuất phát lúc 4h sáng), tôi đi chuyến xe đò buổi chiều về thẳng Tam Kỳ, hẹn sẽ gặp nhau dưới đó sau khi anh đã xong việc ở Mang Giang rồi cùng ra Duy Xuyên.

Tôi đổi xe lúc 7h tối ở Nha Trang, xe chạy suốt đêm và thả tôi xuống Tam Kỳ lúc 6h30 sáng ngày 2/8/2006, thuê xe ôm về trụ sở Hội Văn nghệ Quảng Nam ở nhờ.

Tôi thổ lộ với anh Nguyễn Bá Thâm – Phó Chủ tịch thường trực Hội, mục đích của chuyến về lại Đất Quảng lần này, và chuyện này tôi cũng chỉ nói riêng với Thâm, trong gia đình tôi cũng chỉ nói riêng với Thục, vợ tôi, trước khi đi, ngoài ra không ai biết cả, bởi trong lòng hầu như không còn hy vọng, nói ra lại khiến mọi người trông chờ phấp phỏng, điều mà tôi không muốn.

Tối 2/8, tôi gọi điện cho anh Ba. Anh báo tin: Đã tìm được hài cốt liệt sĩ ở Mang Giang, ngày mai sẽ đi theo đường Ngọc Hồi (Kontum) ra Phước Sơn rồi xuống Tam Kỳ.

Chúng tôi hẹn sẽ gặp nhau ở Tam Kỳ vào ngày mai. Sáng 3/8, tôi thầm tính: Anh Ba đi từ Mang Giang vòng ra Phước Sơn, chắc cũng phải trưa hoặc đầu buổi chiều mới tới Tam Kỳ.

Tính vậy, bèn mượn Nguyễn Bá Thâm chiếc xe máy phóng ra Duy Thành (Duy Xuyên) để thắp hương khấn Quý và nói chuyện trước với vợ chồng Võ Bắc, nhờ Bắc giúp thuê sẵn người chuẩn bị hôm sau (4/ sẽ đào tìm. Tôi dự liệu việc đào tìm cũng phải vài ba ngày. Tính vậy nên đi người không, trưa sẽ trở lại có mặt ở Tam Kỳ để đón anh Ba.

Nhưng sự việc diễn tiến vượt ngoài mọi dự liệu. Khoảng mười giờ kém, tôi nhận được điện thoại của anh Ba. Anh hỏi: Anh đang ở đâu? Tôi đang trên đường ra Duy Xuyên. Anh đang ở đâu? Chúng tôi đang đi trên đường số 1, đã gần tới Thăng Bình.

Lúc ấy tôi đang dừng xe cách thị trấn Hà Lam huyện lỵ huyện Thăng Bình khoảng hơn 1km, bèn dặn ngay anh Ba: Vậy tôi chờ các anh ở bưu điện Thăng Bình ngay bên đường số 1 chỗ góc ngã tư Hà Lam rồi ta cùng ra Duy Xuyên.

Mười lăm phút sau chúng tôi gặp nhau, tôi chỉ đường cho người lái xe rồi hướng dẫn ra Duy Xuyên, xuống thẳng Duy Thành. Xe đậu ngoài đường cái, gia đình anh Thanh cùng anh Mai ngồi lại trên xe, tôi chở anh Ba bằng xe máy vào thôn Thi Thại. Lúc ấy khoảng 10h30.

Anh Ba đứng trước bia tưởng niệm Quý, đọc văn bia, nhìn quanh bốn phía xem xét địa hình, hỏi lại tôi một lần nữa các chi tiết diễn biến trước giây phút cuối của Quý trong đêm 8/3/1969, bảo tôi chỉ trên thực địa vị trí tìm thấy tấm dù, vị trí bờ tre và giao thông hào xưa kia như thế nào.

Anh cũng hỏi Võ Bắc về địa hình mà Bắc thấy từ khi về ở trên khuôn viên này. Yên lặng một lát, anh Ba bảo: Tôi nghĩ là ở hướng này ! Anh khoát tay chỉ về hướng tây bắc, tính từ vị trí đứng quay mặt vào bia tưởng niệm (bia dựng quay về hướng bắc).

Rồi anh đi về hướng anh vừa chỉ đó, qua cạnh giếng xây, gần bên cây rơm và chuồng bò, qua bụi chuối xuống vườn bắp, vòng qua vòng lại một chặp, trở về trước sân, bảo: Chiều, hai giờ mình làm.

Tôi dặn Bắc thuê giúp người đào, anh Ba bảo: Không cần nhiều đâu, hai người thôi. Bắc nói: Vậy đã có cháu đây, kêu thêm một người nữa thôi. Anh Ba dặn mua ít trái cây, tôi nói Hảo vợ Bắc mua giùm luôn.

Tôi đèo anh Ba trở ra đường cái chỗ xe đậu rồi cùng vợ chồng anh Thanh và cựu đại tá Mai lên một quán cơm trên đường số 1 ăn trưa. Ăn xong mới hơn 12 giờ.

Thấy còn sớm, vợ chồng anh Thanh cũng nóng lòng muốn lên phía tây Duy Xuyên, nơi anh có người anh ruột hy sinh tháng 11/1967, trong giấy báo tử ghi là xã Xuyên Mỹ. Tôi hỏi anh chủ quán cơm: Xuyên Mỹ ngày xưa giờ gọi là Duy gì, thì được cho biết là Duy An.

Trao đổi ý kiến một lát, vợ chồng anh Thanh nhất trí buổi chiều nay anh Ba tập trung tìm kiếm ở Thi Thại, và anh Ba quyết định vào việc sớm, không đợi đến 2 giờ. Chúng tôi trở lại Thi Thại lúc 12h30. Anh Ba đặt đĩa trái cây trước bia tưởng niệm, bảo tôi thắp hương khấn. Thắp xong ba nén hương, tôi khấn:

“Quý ơi, hôm nay có anh Đặng Xuân Ba cùng về đây giúp anh cố tìm em một lần nữa, em linh thiêng hãy cho anh lần này được thấy em, nếu em cho thấy, thì xin cho âm dương”.

Anh Ba hướng dẫn tôi cách cầm và gieo hai đồng tiền cổ trên chiếc đĩa sắt tráng men.Tôi gieo hai lần đều không được âm dương. Bỗng thấy một bàn tay đặt nhẹ trên vai trái, tôi ngoảnh sang, thì ra anh Mai, anh ghé tai tôi bảo nhỏ: Ông quì xuống đã rồi hãy xin. Tôi quì xuống. Bao lâu nay khi cúng giỗ trong nhà hay mỗi lần về đây thắp hương tưởng niệm Quý, tôi chỉ đứng vái rồi cúi xuống cắm hương. Đây là lần đầu tiên tôi quì. Tôi gieo lần thứ ba. Hai đồng tiền hiện ra âm dương.

Anh Ba dẫn tôi đi lên hướng tây bắc cách bia tưởng niệm khoảng 25m, cạnh một bụi chuối chỗ góc vườn bắp, bảo tôi thắp hương và gieo xin âm dương. Tôi gieo và được ngay âm dương.

Anh Ba bảo tôi cắm hương chỗ đó, và anh lấy một que tre cắm làm mốc cách ba nén hương độ hơn gang tay. Xem đồng hồ, anh bảo: Bây giờ 1 giờ kém mười lăm, để 1 giờ mình đào. Chúng tôi vào nhà uống nước trò chuyện một lát đến 1 giờ thì trở ra vị trí ấy.

Nhưng khi Võ Bắc và cháu Nam (gọi Bắc là cậu ruột) sắp động thổ thì anh Ba bảo khoan hãy đào. Anh đứng yên lặng một lát rồi bước đi khoảng hơn 2 m chếch về hướng tây bắc ra rìa bên ngoài vườn bắp và chỉ xuống chân: Đây, đào chỗ này!

Anh bảo tôi đứng thay vào chỗ anh, chỉ tay xuống đất để anh chụp ảnh, rồi lấy xẻng chấn một khuôn hình chữ nhật 2m x 0,70m. Bắc và Nam bắt đầu đào. Ban đầu là lớp đất mượn. Khoảng hơn nửa tiếng sau, hết lớp đất mượn, ở độ sâu hơn 1m, Bắc đưa lên cho anh Ba một mẩu gì đó màu nâu hồng cỡ bằng ngón tay út: Hình như là xương chú ạ.

Anh Ba cầm lấy, nhìn, và bảo: Đúng, xương.Anh đưa tôi coi. Tôi cầm lấy coi, chỉ biết vậy, chưa hiểu thế nào, khẽ hỏi anh Ba: “Sao lại màu nâu hồng anh nhỉ ?”. Anh bảo: “Ở trong đất lâu năm, nó màu như vậy”. Bắc và Nam vẫn tiếp tục đào. Độ hơn 5 phút sau, nhát xẻng của Bắc lật ra một vật gì sáng sáng.

Bắc nhặt lên đưa anh Ba: Hình như cái kẹp tóc, chú à. Anh Ba cầm lấy coi, bảo: Đúng, cái kẹp tóc. Anh lau sạch đất bám trên mặt chiếc cặp bằng đuy-ra, thấy hiện ra hình ngôi sao ở chính giữa, hai bên là hình hoa mai nối tiếp hình trái tim.

Anh gỡ lớp đất bám dày ở mặt sau, thấy lộ ra hai cọng giây thép đã rỉ, bên dưới là một lớp nhựa đệm màu nâu xỉn. Anh dùng ngón tay khơi nhẹ lớp nhựa đã mục, gãy một miếng nhỏ. Anh khơi tiếp. Gãy một miếng lớn hơn.Và…

Trước mắt tôi, trên mặt sau chiếc cặp là hai chữ X Quý. Bên dưới là chữ EI. Anh Ba khều hết lớp nhựa, thấy hai chữ TẶNG CHỊ trước hai chữ X QUÝ.

TẶNG CHỊ X QUÝ
EI

Anh Ba trao chiếc cặp tóc cho tôi. Tôi nhìn dòng chữ có thật đó trên tay mà ngỡ như mình đang trong chiêm bao. Tất cả đều khắc kiểu chữ in, riêng chữ x khắc kiểu chữ thường, như một cánh hoa. Khắc bằng cách dùng vật nhọn, một mũi dao găm chẳng hạn, ấn mạnh xuống từng chấm sâu nối nhau tạo thành chữ.Tôi nghĩ EI chắc là trung đoàn 1.

Chắc một chiến sĩ nào đó của trung đoàn 1 (thuộc sư đoàn 2 Quân khu 5) đã tặng Quý (hôm sau tôi điện hỏi anh Nguyên Ngọc, được anh cho biết thời gian cuối 1968 đầu 1969, có các đơn vị của trung đoàn 1 đứng chân ở Thăng Bình, Quế Sơn, Duy Xuyên).

Điều không thể đã thành có thể. Tôi đã tìm thấy Quý.

Mấy phút sau Bắc nhặt đưa lên hai chiếc khuy áo nhỏ xíu màu xanh lá cây, trên mặt khuy có chữ LEVIS. Rồi tiếp tục đưa lên các mẩu xương lớn hơn. Anh Ba chỉ cho tôi thấy, và bảo, như vậy là đầy đủ tứ chi và một mảnh xương sọ.

Quả thật tôi đã tìm thấy Quý.

Tôi nhìn đồng hồ: 13h50. Từ lúc động thổ đến lúc thấy, không đầy 50 phút. Khoảng gần 9h đêm 8/3/1969 Quý ngã xuống trên mảnh đất này. 2 giờ kém 10 chiều nay, 3/8/2006, sau 37 năm, tôi tìm thấy Quý. Không phải là ngày mai, 4/8, như tôi dự liệu, mà là hôm nay – 3/8/2006.

8/3 – 3/8. Thật lạ, tôi thầm nghĩ.

Lúc này tôi mới gọi điện báo tin cho gia đình, cho Nguyễn Bá Thâm, người luôn có mặt cùng tôi từ cuộc tìm kiếm đầu tiên năm 1983 tới nay. Thâm báo tin lại: Nửa tiếng nữa sẽ có mặt cùng anh chị em Đài truyền hình Quảng Nam và phóng viên Trung Việt của báo Tiền Phong.

Anh Ba hốt hết đất chỗ Quý nằm có màu khác với đất chung quanh, chắc là đã thấm hết trong đó toàn bộ phần còn lại của di hài Quý, chuyển lên tấm vải liệm trắng, trải một lớp dày, đặt trên đó các mẩu xương theo vị trí thân thể, và liệm. Tôi đặt Quý vào chiếc tiểu sành mà cháu Chính (anh rể của Võ Bắc) mua giúp vừa kịp mang về đúng lúc.Tôi đắp cho Quý một lá cờ đỏ sao vàng và đậy nắp tiểu.

Sau khi gọi điện trao đổi ý kiến thống nhất với gia đình, được sự đón nhận của vợ chồng Võ Bắc, tôi cùng hai cháu Bắc, Chính, hai người luôn có mặt với tôi trong các cuộc tìm kiếm từ năm 1995 tới nay, tiến hành cải táng cho Quý ngay sau bia tưởng niệm, nơi từ khi Quý ngã xuống đã thành một địa chỉ tâm linh của tôi.Và của cả bao người.

Thôi em nằm lại
Với đất lành Duy Xuyên…

Nhà thơ Bùi Minh Quốc

Cậu Tư – Phạm Lưu Vũ

•Tháng Một 10, 2008 • Gửi bình luận
Cậu Tư

Phạm Lưu Vũ

(Tạp bút)

Tôi sẽ viết sau đây một câu chuyện thần thoại. Đất nước này trong những thời điểm vô vọng của tâm linh, trong những lúc kì cùng của kiếp sống thường sinh ra những kì nhân. Có thời đại nào, có ở đâu trên thế gian này lại dày đặc xương người, vương vãi nơi đồng không mông quạnh, vùi lấp giữa rừng thẳm suối sâu… như ở dải đất từng là bãi chiến trường vô nhân vô đạo lý khủng khiếp này? Bao oan hồn vất vưởng, dãi dầu nơi xứ lạ quê người, mấy mươi năm “thở than dưới đất ăn nằm trên sương” (Văn chiêu hồn – Nguyễn Du), lạnh lẽo không một tiếng khóc than, không một ai hương khói, mà đường về quê Mẹ thì xa xôi mù mịt, quỷ dữ luôn rình rập ở mọi chốn, mọi nơi… Nếu con người ở xứ sở này không mắc chứng ích kỉ và vô cảm bẩm sinh, thì ở bất cứ chỗ nào, bất cứ lúc nào cũng có thể nghe tiếng gào thét của hàng nghìn, hàng vạn oan hồn. Cõi âm đã “động” đến thế thì cõi dương yên ổn làm sao được. Nỗi đau đớn không thể nào nguôi của những người thân, cùng với những tiếng thở than, gào thét xé lòng ấy đã bao năm ngùn ngụt thấu đến tận Trời. Và những kì nhân đã xuất hiện. Bằng khả năng ngoại cảm thiên tài của mình, họ đã ra tay. Hàng nghìn, hàng vạn hài cốt và cũng là hàng nghìn, hàng vạn oan hồn tưởng mãi mãi vùi lấp chốn lãng quên, mãi mãi ngậm hờn làm con ma vô chủ, nay đã được trở về với quê hương, trở về với những người thân để đợi ngày siêu thoát…

Trước những sự thật ghê hồn đó, khoa học hiện đại, khôn ngoan tuyệt đỉnh của con người không thể giải thích. Các công cụ, thiết bị tối tân của nó đã bó tay. Những chủ nghĩa, học thuyết vô thần thi nhau sụp đổ, hoặc leo lẻo biến hình, hoặc đổi màu như những con kì nhông, hoặc vẫn mặt dày tồn tại một cách trơ trẽn, thảm hại… Mặc kệ những thứ đó, các oan hồn đã cất lên tiếng nói, chỉ rõ nơi vùi lấp, khai tên tuổi, địa chỉ, người thân… cùng hàng trăm nghìn nỗi đau không bút nào tả xiết, không cái nào giống với cái nào. Những ông bố, bà mẹ mất con, những người vợ mất chồng, những người con mất cha, v.v… đã tin vào những sự thật hiển nhiên đó. Nhân dân đã tin, bất kể sự im lặng tuyệt đối của những đấng vô thần. Cuộc đời, nếu có ai đó khát khao sự thật, tất có kẻ sẽ hoảng sợ vì nó. Không ít những sự thật chẳng phải đang được chứa chất trong những oan hồn tưởng vĩnh viễn bị chôn vùi, vĩnh viễn không được cất lên tiếng nói đó ư? Chỉ đến khi nào cả thế gian không còn sự dối trá nữa, thì mới không còn ai cần đến sự thật, và cũng không còn kẻ nào phải sợ hãi trước sự thật. Những nhà ngoại cảm từng cứu vớt bao linh hồn của cả người chết lẫn người đang sống ấy đã và chắc sẽ chẳng cần được phong anh hùng. Song việc làm thần thánh của họ có trời cao đất dày này chứng kiến. Công lao kì vĩ, tuyệt vời nhân bản, không gì sánh nổi của họ trùm cả 3 cõi, được cả 3 cõi: người, quỷ thần và cõi từ bi ghi nhận, chỉ trừ mỗi cái “cõi” im lặng kia thôi.

Những ai đó có thể nhắm mắt làm ngơ, có thể “lờ” đi vì sợ hãi, vì mặc cảm tội lỗi hay vì một mục đích tối tăm nào đó. Song không ai có thể nghi ngờ về sự song song tồn tại của cả một thế giới tâm linh cùng với nền “văn minh” hiện đại của loài người. Âu cũng là một nhẽ biện chứng của cuộc đời. Có điều ở đây, đó là một thế giới thảm thương. Thế giới mà thi hào Nguyễn Du đã miêu tả trong “Văn chiêu hồn”:

“Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô da rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương.

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi ẵm trẻ dắt già
…”

Rất may, thế giới đó đã và đang có những kì nhân để đưa các vong hồn trở về với người thân, trở về nơi siêu thoát. Thế còn thế giới của những người nghèo, những “cô hồn” sống đang lâm vào cảnh kì cùng của kiếp người trên cõi dương gian này?

Thế kỉ 21 này vẫn chưa cho phép những kẻ nghèo hèn có quyền được sống tử tế nếu trót mang bệnh trong người. Từng bầy, từng bầy dân chúng nhàu nát, hôi hám, lôi thôi già trẻ chen chúc xếp hàng ngùn ngụt trước cửa những phòng khám, ngập ngụa những hành lang, la liệt trên những giường bệnh cũ kĩ có khi phải 2, thậm chí 3 “con bệnh” nằm giở đầu đuôi… Đơn giản thôi. Các bệnh viện đã quá tải trầm trọng. Có thẻ bảo hiểm y tế ư? Đó là thứ mà nhiều bác sĩ ăn lương nhà nước thời nay ghét cay ghét đắng. Mức độ nhiệt tình, thái độ đối xử… của họ tỉ lệ nghịch với tấm thẻ đáng thương ấy. Thật tội nghiệp, thẻ bảo hiểm chỉ đem lại lợi ích cho những ai đó, cho những cấp “quản lý” ở tận đâu đâu… chứ không mang lợi trực tiếp đến cho họ. Xứ sở này chỉ hâm mộ “tiền tươi” mà thôi. Đó là những đồng tiền được nhìn thấy, sờ thấy liền trước mắt, những đồng tiền sẵn sàng chui ngay vào trong túi của mình. Thế là “con bệnh” không có thẻ có khi còn đỡ, có thẻ vẫn phải đóng tiền. Con người vốn thông minh nên dễ dàng nghĩ ra những khoản nằm “ngoài thẻ bảo hiểm”: tiền cho những thứ thuốc gọi là “đặc trị”, tiền mua thuốc ngoại, tiền cho những mũi tiêm rất đáng nghi mà “con bệnh” không có quyền thắc mắc… Đặc biệt, khoản này thì bất kể có thẻ hay không. Đó là phải chuẩn bị sẵn những món tiền “bồi dưỡng”, để sẵn sàng nhét vào túi cái áo blu trắng tinh và cao quý của những vị “từ mẫu lương y” ấy. Thăm bệnh: nhét, chích thuốc: nhét, truyền dịch: nhét, thậm chí nếu “con bệnh” đang hấp hối, thì người nhà càng phải nhét thật nhanh tay, v.v… “Luật” ấy, than ôi dẫu “bất thành văn”, song từ lâu đã “bất di bất dịch”.

Ai đã lần đầu tiên dùng từ “con bệnh”? “Thuật ngữ” ấy mới chính xác làm sao, cay đắng làm sao. Xin lỗi những vị y, bác sĩ chân chính, các vị hãy tin rằng người viết luôn có sẵn ý định trừ các vị ra. Song là những người “nằm trong chăn”, các vị chắc chắn thừa biết rằng hằng hà sa số những “con bệnh” kia chính là nguồn sống, nguồn kiếm tiền, nguồn làm giàu vô tận của nhiều, rất nhiều những người mặc blu trắng, những gã cò mồi, những kẻ buôn thuốc, những cấp “quản lý”… Tóm lại là những người dính dáng đến nghề y, hệt như những con bò, con heo, hay con gà, con vịt… nuôi trong chuồng nhà họ vậy. Thế những người nghèo không có tiền mua thuốc (xin lưu ý: giá thuốc đang ngày càng tăng phi mã, tăng tự do, vô tội vạ), những người nghèo không có tiền nằm viện, không có tiền “bồi dưỡng”… thì sao? Nhất là họ không may mắc phải những chứng bệnh nan y? Thì… họ không có quyền được chữa trị, thậm chí không có quyền được sống nữa chăng?

Chắc sẽ thế thôi. Họ sẽ không có cơ hội được sống, như một cách “chọn lọc tự nhiên” ghê rợn, để dành chỗ trong cuộc đời cho những kẻ khoẻ mạnh! Cứ gì thế kỉ 21 ấm no hạnh phúc này, thế kỉ nào chắc cũng phải vậy thôi. Những kiếp giẻ rách ấy sẽ phải chết, nếu nơi đây không xuất hiện những kì nhân…

Ai đã tin rằng có những “kì nhân” của các vong hồn, tưởng cũng nên tin rằng có “kì nhân” của những kiếp người “kì cùng” ấy.

Một trong những “kì nhân” ấy là Cậu Tư.

Đó là một vùng quê hẻo lánh rất xa Thành phố. Con đường nhựa đủ cho khoảng 1,5 làn xe từ lộ chính chạy hun hút vào một ấp nhỏ. Nơi ấy có Cậu Tư đang “hành nghề”. Chẳng biết từ bao giờ, cái ấp nhỏ này đã trở nên sầm uất, sôi động với đủ các loại hàng quán bệ rạc, chợ búa tanh tưởi, nhà trọ tồi tàn mọc lên san sát. Nơi đây lúc nào cũng thường xuyên có khoảng bốn đến năm trăm người bệnh nằm la liệt, nhếch nhác trên những dãy giường tre, trong những căn nhà lá tùm hụp. Bất chấp cái nắng nóng rừng rực, nóng như nung người của miền Tây, bất chấp ruồi, muỗi như trấu, bất chấp dòng kinh đen sì lúc nào cũng bốc lên một thứ mùi hôi thối khủng khiếp. Những con bệnh nan y mà các bệnh viện đã thải về chờ chết, hoặc không có tiền viện phí, hoặc không tiền mua thuốc… hàng ngày từ khắp nơi ùn ùn về đây hy vọng kéo dài thêm cái kiếp sống khốn khổ của mình. Nghĩ cũng phải thôi. Đến con vật còn khát khao cuộc sống nữa là con người. Nghe nói Cậu Tư sinh năm Canh Tý, năm nay sang tuổi 48. Tối tối, bước qua chiếc cầu xi măng rộng chừng hơn mét, không lan can bắc qua dòng kinh đen, dòng người lần mò bước thấp bước cao trong một con hẻm nhỏ ngoắt ngoéo, chỗ sáng chỗ tối loang lổ, hai bên là liên tiếp những dãy phòng trọ mùng mền luộm thuộm ken dày đặc. Từ trong đó xộc ra một thứ mùi rất khó tả. Đó là mùi người trộn lẫn với mùi hôi thối của nước dòng kinh. Nhà Cậu Tư cất sát một con rạch khác nước cũng đen không kém. Một “phòng khám” rộng chừng 9m2 cất bằng cây sơ sài, không cửa nẻo, trong đó kê một chiếc bàn và 2 chiếc ghế băng. Một căn điện thờ toạ lạc chính giữa sân. Phía sau là một nhà chứa thuốc kiêm phát thuốc rộng rãi. Tất cả đều làm bằng gỗ, lợp lá, tồi tàn như hầu hết các căn nhà khác trong ấp. Một khoảnh sân trước “phòng khám” đủ rộng cho vài trăm con người. Tối nào Cậu Tư cũng ngồi nói chuyện khoảng hơn 1 giờ đồng hồ với các bệnh nhân hoặc người nhà của họ.

Đám đông rầu rĩ, nhợt nhạt dưới ánh đèn nê ông hắt ra từ “phòng khám”, nơi Cậu Tư đang ngồi. Già trẻ, lớn bé ước chừng hơn trăm con người ngồi bệt dưới đất hoặc đứng lố nhố vòng trong vòng ngoài. Tất cả cùng im lặng nghe Cậu Tư nói chuyện. Cậu Tư mặc quần tây sẫm màu, áo sơ mi trắng, người cao ráo, ốm nhom, hai bàn tay xương xẩu, ngón dài gấp rưỡi người thường. Đôi mắt Cậu sáng quắc. Cậu ngồi vắt chân đường hoàng, đốt thuốc lá liên tục, vừa rít vừa trả lời những câu hỏi đủ các loại trên giời dưới bể của đám đông. Thỉnh thoảng lại một giọng rụt rè cất lên…

“… Tôi ăn không tiêu, bác sĩ kê toa cho uống thuốc song chỉ được vài hôm. Giờ không đủ tiền mua thuốc, cái bụng cứng ngắc lại rồi, đau không chịu nổi. Bác sĩ bảo ung thư dạ dày, phải xạ trị, mỗi lần xạ trị 15 triệu đồng, trăm sự nhờ Cậu. Cậu Tư ơi…”

“Đứa nào bảo ung thư dạ dày? – Cậu Tư mắng – trước mày khó tiêu là tại cái gan đó. Gan không tiết đủ dịch nên không tiêu hóa được thức ăn, lại cứ đổ tại dạ dày. Uống thuốc tiêu hoá thì nước mẹ gì. Nay cái u trong gan mày đã to tướng lên rồi, chắc không dưới 27 cm. Sáng mai vô tao xem thế nào…”

Một giọng đàn ông khác thiểu não:

“… bịnh viện nói gan tôi hư, phải ghép. Chi phí ghép gan 1 tỷ rưỡi. Cậu Tư ơi! Tôi một trăm ngàn cũng không có, lấy đâu ra tỷ rưỡi bây giờ?…”

“Mày 48 đúng bằng tuổi tao, chết cũng được rồi đó. – Cậu Tư pha trò – Xuống dưới ấy mua lấy vài mẫu đất, phân lô sẵn đợi tụi tao xuống rồi bán, chắc chẳng mấy chốc có đủ tỷ rưỡi (đám đông bật cười rào rào). Bây giờ đâu đâu người ta cũng làm như thế hà rầm à. Có đúng không bà con? (nhiều tiếng vỗ tay từ đám đông). Nếu muốn ở lại cõi dương này thì đưa đây hai trăm triệu, đảm bảo tao chữa khỏi cái gan cho mày. Không khỏi tao trả lại tiền, chứ bịnh viện thì đừng hòng người ta trả lại. Chịu không?”

Im lặng…

“Thế nào? Hai trăm thôi, rẻ hơn bịnh viện những 1 tỷ ba. Nói thế chứ gan mày đâu đã đến nỗi hư. Chỉ là bị lủng một ống huyết đó thôi. Từ đó máu chảy ra đổ vào dạ dày, vì thế ỉa ra máu. Lại đổ vào bể thận, vì thế đái cũng ra máu. Chịu hai trăm đi rồi tao cho thuốc, đảm bảo 2 tiếng sau ngưng ra máu liền…”

Im lặng…

“Chịu đi, chịu đi…” – nhiều tiếng xì xào giục khẽ từ phía đám đông.

Im lặng…

“Tao chữa bệnh cho bà con gần 18 năm nay, chưa hề lấy một đồng tiền thuốc nào. Vậy mà có lúc vẫn bị nghi là lừa đảo để ăn tiền của dân. Đã vậy tao phải “mần” cho ra tấm, ra món đàng hoàng, không thèm “mần” lặt vặt. Vì thế vụ này phải kêu hẳn hai trăm. Đúng không bà con?” – đám đông lại bật cười rào rào.

Người đàn ông khốn khổ kia vẫn cúi đầu im lặng. Từ trong hai hốc mắt đen ngòm của anh ta, vừa lăn ra hai giọt nước mắt long lanh…

“Bà con thấy chưa. Thằng này hai trăm còn tiếc, huống hồ là tỷ rưỡi. Chẳng trách bịnh viện người ta đuổi về là phải. Thôi, nói chơi vậy nghen. Tao mà lấy của ai một đồng thì người ta cho tao vào tù lâu rồi. Còn đâu mà ngồi đây chữa bệnh cho mày… Có đúng không bà con?”

“Đúng thế. Đúng thế…” – đám đông hưởng ứng.

Rồi Cậu Tư tiếp tục:

“Bà con mình chỉ những lúc bịnh mới thấy quý mạng sống. Có biết đâu rằng bịnh nó xâm nhập vào mình từ mọi lúc, mọi nơi. Cơ thể hàng ngày sản sinh ra biết bao nhiêu tế bào. Trong số những tế bào mới sinh ra đó, tất phải có những cái phế phẩm. Số lượng phế phẩm nhiều ít liên quan đến ăn uống, hít thở, tiếp xúc với độc hại, ô nhiễm… Bình thường thì cơ thể thu những “phế phẩm” ấy vào một chỗ rồi “khoá” lại, gọi là cái u lành. Đến một lúc nào đó, cái “khoá” bỗng bị hư. Thế là những tế bào phế phẩm ấy được dịp tung ra, tự nhân đôi vô tội vạ, một thành hai, hai thành bốn, v.v… Cứ thế, chẳng mấy chốc cái u phình to ra, chèn ép các cơ quan khác, lại phát tán đi khắp nơi… Thế là thành u ác. Nó là cái thứ rất độc. Nếu biết sớm mà “dọn” đi, thì sau này dẫu “khoá” có bị hư, cũng không hề hấn gì…”

“Bà con tới đây toàn là những người bịnh viện đã thải về, nếu không thì cũng tự thải do không có tiền nằm viện hoặc không tiền mua thuốc. Thuốc của Cậu Tư chỉ gồm 3 thứ: nam, bắc và núi. Nhẹ dùng thuốc nam, nặng dùng thuốc bắc, kết hợp với lá cây hái ở trên núi. Đã nghe Cậu Tư này chữa bịnh thì phải biết ăn kiêng. Không kiêng khem thì có khi lại nuôi cho cái u nó ngày càng lớn lên, thuốc nào trục ra cho xuể…”

“Chữa bệnh nan y có khi phải lấy độc trị độc. Nghĩa là phải làm sao cho tự những chất độc trong cơ thể nó thủ thế diệt nhau, mạng ta ở giữa hưởng lợi. Song đừng để cho những chất độc ấy rơi vào thế mất cân bằng. Nếu mất cân bằng thì mạng tiêu luôn. Vì thế càng phải ăn uống theo đúng chỉ định. Cái thằng bác sĩ ở bịnh viện (…) trên Thành phố ấy. Ung thư di căn giai đoạn cuối, bịnh viện bó tay rồi, xuống đây tao bảo còn nước còn tát. Uống thuốc tao 6 tháng khoẻ mạnh trở lại. Về nhà siêu âm thấy không còn khối u. Con cháu, bạn bè mừng quá mở tiệc ăn mừng. Giời xui đất khiến thế nào mà trong tiệc lại có món lươn là món tao cấm. Thằng ấy lú lẫn nhất thời không nhớ ra bèn ăn vào. Chết liền hai giờ đồng hồ sau đó…”

“Kể chuyện ấy ra đây không phải để hù bà con. Cậu Tư này muốn nói rằng có thể chữa được bịnh, song không thể chữa được “đức”. Một khi “đức” đã cạn thì “mạng” ắt phải tiêu. Dẫu chữa được bịnh này thì cũng chết vì bịnh khác, thậm chí không bịnh cũng phải chết. Cái nhẽ sinh tử nó như vậy mà. Chẳng nhẽ cứ chữa được hết mọi bịnh thì con người ta sẽ sống mãi hay sao? Cậu Tư nói không thể chữa được “đức”, cũng tức là không thể đổi được “thiên cơ”. Con người ta sống ở đời, ngoài việc cần phải có cơm ăn, nước uống, cần đến một cơ thể không bịnh tật… còn cần phải có “đức” nữa. Tại sao như thế? Bởi “đức” là “tài sản”, là “của cải” đảm bảo cho cái “mạng” của mình. Cũng như nhà nước in tiền ra phải có vàng ở trong kho đảm bảo vậy. Vàng trong kho mà cạn, thì tiền chỉ còn là giấy lộn mà thôi. Vàng trong kho càng nhiều thì tiền càng có giá. Cũng như “đức” càng dày thì “mạng” càng lớn, có khi đạn bắn trúng tim cũng không chết, kẻ ác tìm mọi cách cũng không hại nổi… huống hồ chỉ là vài căn bệnh cỏn con. Song nếu “đức” đã cạn thì Phật Tổ cũng bó tay. Lúc đó mạng người hay là giẻ rách thì cũng chẳng khác gì nhau. “Đức” cần đối với mạng sống của con người cũng ví như cái cây sống cần phải có nước vậy. Nước đã cạn rồi thì dẫu có bắt sạch hết mọi loại sâu bọ đang đục trong thân đi, cái cây vẫn phải chết… Ông bác sĩ kia chính là ứng vào trường hợp như thế đó. Chẳng phải tại Cậu Tư không dặn kĩ đâu…”

Kết thúc buổi nói chuyện hằng đêm, con hẻm ngoắt ngoéo, tối tăm lại đưa đám đông rời nhà Cậu Tư. Những bóng đen dắt díu nhau dò dẫm lần mò trên bờ rạch, len lỏi giữa những căn phòng trọ lúc này chỉ còn tù mù những ngọn đèn ngủ đỏ quạch. Con hẻm tối tăm, khấp khểnh, khó đi như muốn thử thách ý chí của những con người cố níu lại sự tồn tại của mình ở chốn dương gian. Nếu không có những tiếng rì rầm trò chuyện, có lẽ ai đó sẽ tưởng nhầm đây là những bóng ma đang lần bước dưới địa ngục. Chợt “rào” một cái. Một bà cụ nào đó vừa trượt chân té xuống con rạch. Mấy người đi gần cụ hoảng hốt, nhốn nháo. Hàng người dừng lại, chôn chân tại chỗ nghe ngóng trong đêm đen mà chẳng giúp gì được. “Giá có một cây đèn cao áp…” – tôi bật lên tiếng nói. Người phụ nữ đi sau tôi nhanh nhảu: “Dào ôi! mười tám năm nay rồi chứ có phải mới một vài ngày, một vài tháng đâu…” – “Thế chính quyền địa phương không quan tâm gì à?” – tôi hỏi – “Dân nghèo chưa muốn xuống âm phủ ngay thì tự dắt díu nhau mà đi tìm lấy cơ hội sống. Chính quyền nào thèm quan tâm”. – “Chẳng lẽ chữa bệnh ì xèo như thế này mà họ không biết hay sao?” – “Họ biết chớ. Bao nhiêu đoàn thanh tra, kiểm tra đã tới đây rồi đó. Họ điều tra xem Cậu Tư có lừa đảo, có làm tiền bất chính hay không. Song Cậu Tư khám, chữa bệnh cho dân mà tịnh không lấy của ai một đồng nào. Họ không có cớ gì mới để yên cho đấy…”

Cậu Tư không hề lấy của ai một đồng nào, cả tiền khám lẫn tiền thuốc. Đó là một sự thật, còn hơn thế nữa kia, tôi đang nghĩ. Vậy cậu lấy đâu ra tiền để sinh sống, để mua thuốc. Mỗi ngày phát không cho bà con hàng nghìn thang thuốc. Cả một căn nhà lớn chứa đầy thuốc. Lại còn những người giúp việc…? Chị phụ nữ bảo: “Cậu có nguồn tài trợ, có các nhà chùa quanh vùng trồng thuốc cung cấp…” – “Ai tài trợ?” – “Thì những người được Cậu Tư chữa khỏi bệnh ấy. Nhiều lắm, có cả Việt kiều, có cả người nước ngoài… Song tất cả chỉ là đồn đoán vậy thôi. Cậu Tư bí ẩn như người giời, không ai có thể giải thích nổi. Có điều con đường nhựa từ lộ vào ấp này, cả chiếc cầu xi măng bắc qua con kinh thì đúng là do người ta tài trợ đấy, có biển ghi tên họ hẳn hoi. Sao không ai nghĩ ra một ngọn đèn cao áp nhỉ?…” – “Vậy tôi muốn biếu Cậu một ít tiền có được không?” – “Đố anh làm được chuyện ấy đấy. Kể cả những người giúp việc. Họ là những người cũng được Cậu chữa lành bệnh, nay tình nguyện ở lại làm công quả, người hai năm, người ba năm… Tất cả đều tuân thủ nguyên tắc không tiếp xúc riêng với bất kì bệnh nhân hay người nhà nào. Mọi người bệnh đều tuyệt đối bình đẳng, không hề có ưu tiên, trừ bệnh nặng…” – “Bệnh nặng thì sao?” – “Thì sẽ được khám và cho thuốc ngay. Còn không phải đăng kí trước hàng tháng theo từng “đoàn”, có danh sách hẳn hoi. Đông ùn ùn thế này, không đặt ra quy củ thế có mà loạn…”

Về đến phòng trọ, ông chủ nhà trọ hớt hải chạy đến đòi tôi giấy chứng minh nhân dân để đem lên trình công an xã. “Tôi tìm anh mãi. Không có giấy chứng minh, bố tôi cũng không dám cho anh ngủ trọ. Họ mà biết thì ngày mai tôi hết được cho thuê phòng luôn.” Ra thế. Đây là dấu hiệu duy nhất cho thấy sự tồn tại của chính quyền. Tôi móc giấy đưa cho ông ta rồi kéo chiếc ghế nhựa ra hè ngồi. Trời nóng kinh khủng. Muỗi bay ràn rạt làm tôi cứ phải luôn tay đập đen đét. Chắc chẳng bao giờ người ta phun thuốc trừ muỗi, mà có phun chắc cũng không xuể. Những phòng trọ rì rầm, nhốn nháo tiếng người. Thôi thì đủ các giọng Bắc, Trung, Nam… Chỉ cần ngoái đầu lại một cái là lập tức mùi người hầm hập, đặc quánh xộc thẳng vào mặt. Những căn phòng đen ngòm như những cái hang chuột khổng lồ. Mấy bóng đen lầm lũi ra vào, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc chổng mông sắc thuốc la liệt suốt dọc con đường đất tối thui. Mùi thuốc thơm bốc lên không át nổi mùi chua khẳn, hôi hám của con rạch đâm thẳng ngay trước mặt. Cái loa thùng ở một quán gần đấy cất lên một giọng ca vọng cổ não nề. Một cái loa khác lại ca tân nhạc, nghe mà phát ớn: “Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay, non nước mây trời lòng ta mê say…” Đàn muỗi xung quanh tôi đã thay đổi chiến thuật. Chúng chia làm nhiều mũi, tấn công tôi tứ phía, cả trên mặt lẫn dưới chân như bị rắc cát. Tôi phải đứng bật dậy, co chân chạy đi chạy lại, vừa chạy vừa quạt tay lia lịa như thể ra dấu hiệu xin hàng… Một đêm kinh khủng đây, tôi nghĩ…

Quả là nếu Cậu Tư không đặt ra quy củ thì không biết sẽ hỗn loạn ra sao. Sáng hôm sau tôi mới chứng kiến những người bệnh đông như thế nào. Từ khắp các nhà trọ bên này cầu, bên kia cầu, từng đám người lôi thôi bồng bế, dắt díu nhau ra. Thật chỉ khác với những cô hồn trong mô tả của cụ Nguyễn Du ở thời khắc. Tất cả lại rồng rắn theo con hẻm nhỏ rì rầm kéo vào nhà Cậu Tư. Khoảnh sân trước “phòng khám” của Cậu hầu như đã kín người, song ai cũng từ tốn, trật tự. Cậu Tư vẫn ngồi chỗ tối qua, ngay sau chiếc bàn kê giữa “phòng khám”. Tay Cậu cầm một chiếc khăn bông, phanh ngực lau mồ hôi túi bụi. Bên cạnh Cậu có một người đàn ông mặt đỏ au mặc áo ca rô, một tay cầm xấp giấy nhỏ, một tay cũng đang hối hả lau mồ hôi. Đó là Cậu Ba, viên “thư kí” ghi bệnh, đồng thời bốc thuốc, trợ thủ đắc lực của Cậu Tư. Hai chiếc ghế băng kê hai bên “phòng khám” đã kín người ngồi. Đó là những người bệnh may mắn đã đăng kí trước theo “đoàn”.

Tám giờ sáng, cuộc khám bắt đầu. Cậu Ba cầm từng mảnh giấy lên đọc tên. Lần lượt từng người trong “đoàn” rời khỏi ghế, tới ngồi trước mặt Cậu Tư. Cậu Tư một tay xem mạch, một tay trỏ vào chỗ nọ chỗ kia trên cơ thể người bệnh, nói rành rọt từng căn bệnh, triệu chứng… để Cậu Ba ghi vào “bệnh án”. Người bệnh ngồi trước mặt Cậu không hề phải kể, không hề nói bất kì câu gì. Cứ thế Cậu chỉ ra từng chỗ, từng chỗ… như thể Cậu nhìn thấu lục phủ ngũ tạng, nhìn thấu tận xương tuỷ của người bệnh vậy. Tất cả chỉ trong vòng một phút, đúng một phút không hơn không kém. Từ tim, gan, phèo, phổi… đến máu, thận, dạ dày, rồi ruột non, ruột già, từ bàng quang, tiền liệt tuyến đến cột sống, ống chân, v.v… đau ở đâu, u ở đâu, kích thước bao nhiêu, đã di căn chưa, di căn tới chỗ nào… Rồi thì nhức ở đâu, mỏi ở đâu, mất ngủ như thế nào, váng vất ra làm sao, cái gì gây nên bệnh, chỗ nào cần chữa ngay… Cả những chỉ số y học như áp huyết, lượng đường, cholestrol, chức năng gan… Cậu vanh vách chỉ ra chính xác đến từng dấu phẩy, như thể Cậu đang đọc một bản thông báo đặt ngay trước mặt vậy. Thật là những cuộc khám tổng quát kì diệu, có một không hai trên thế gian này. Sở dĩ nói như thế bởi tất cả chỉ diễn ra trong vòng 1 phút. Ai đã từng vô bệnh viện khám tổng quát? Nếu suôn sẻ, thì ít nhất cũng phải mất cả ngày trời với bao nhiêu xét nghiệm, rồi lấy máu, lấy nước tiểu, rồi X quang, siêu âm, rồi nội soi, điện tâm đồ… với những thiết bị tinh vi, những chuyên gia đầy bằng cấp… mà cũng phải đợi hàng tuần sau mới có đầy đủ kết quả, những kết quả y hệt như Cậu Tư vừa chỉ ra trong cái phút giây thần kì ấy.

Tôi đang chứng kiến một câu chuyện thần thoại diễn ra ngay trước mắt mình. Chẳng mấy chốc Cậu Tư đã khám xong cho số người đăng kí trước ở hai hàng ghế. Họ sẽ được Cậu Ba ghi toa và bốc thuốc phát ngay trong ngày hôm đó. Những ngày sau không cần khám lại nữa, người nhà chỉ việc đem toa vào lãnh thuốc. Bây giờ đến lượt những ca bệnh nặng, những người chưa kịp đăng kí đang ngồi la liệt dưới sân. “Thuật ngữ” ở đây gọi là “khám ngoài giờ” (lẽ ra phải là “ngoài luồng” mới đúng). Già trẻ lớn bé, bất kể thần thái ra sao, bất kể mập ốm thế nào, cứ bệnh nặng là Cậu nhìn ra, không trật một người nào. Sau khi lau mồ hôi, ngồi một lát định thần, Cậu trỏ tay gọi người này, người kia… Tất cả hầu như bệnh nan y. Một phụ nữ vừa tới được một lúc, trên tay bế đứa nhỏ khoảng bốn tuổi. Cô bé mặt mũi kháu khỉnh, ngây thơ, người ốm nhom như bị suy dinh dưỡng. Cậu Tư vừa nhìn thấy liền gọi ngay:

“Bịnh viện nhi đồng trả về phải không? Tội nghiệp, con bé trông thế kia mà bị ung thư máu nặng đấy. Thôi thì còn nước còn tát…”

Người phụ nữ đổ sụp xuống, òa lên nức nở. “Trời, đúng thế đấy Cậu Tư ơi. Xin Cậu cứu lấy con tui…”

Đến lượt người đàn ông tối qua. Khoanh ngón tay trỏ và ngón cái dí vào bụng người ấy làm động tác “nội soi”, Cậu bảo:

“Tối qua, tao đoán khối u này chừng 27 cm. Nay “nội soi” cho kết quả hai mươi chín phẩy hai xăng ti mét…”

Người khác:

“Giở áo lên coi vết mổ ở bụng xem nào. Cắt dạ dày phải không? Ẩu quá, phải chụp lại làm bằng chứng mới được, sau này nhỡ bịnh viện họ cãi phăng. Họ cắt có một phần ba phía bờ cong lớn, lại nói là cắt hai phần ba. Mày bị loét dạ dày nặng, đâu phải ung thư. Nay động dao kéo vào nó sinh ra di căn…”

Buổi khám bệnh kết thúc đúng vào lúc 10 giờ. Hai tiếng đồng hồ kịp yên lòng cho khoảng trên dưới 40 người may mắn. Những người khác tiếp tục chờ đến hôm sau, hôm sau, và hôm sau nữa, v.v… Cậu Tư và Cậu Ba phờ phạc đứng dậy, trật áo ra khỏi vai lau mồ hôi, một tay cầm chiếc quạt giấy quạt lấy quạt để. Đám đông vẫn từ tốn, trật tự kéo nhau rời khỏi mảnh sân. Không một tiếng năn nỉ, luật vậy rồi, năn nỉ cũng vô ích. Rất nhiều người chưa được khám, song không một gương mặt thất vọng. Tất cả rồi sẽ đến lượt. Chỉ một phút thôi. Nhưng để có được cái phút quý giá ấy, nhiều người đã phải ăn chực nằm chờ cả tháng trời…

Rồi cũng đến lúc tôi rời khỏi cái ấp nhỏ bé chật chội và ô nhiễm ấy. Chiếc cầu xi măng cong cong bắc qua con kinh vừa trải qua một ngày đêm đã trở nên thân thuộc. Trước đây nó chỉ là cái cầu khỉ, người lớn phải cõng trẻ con qua. Ngay đầu cầu gắn một tấm biển đề mấy câu “lục, bát” cực kì sái vần:

“Qua cầu chậm bước ngắm nhìn
Nhớ đời từ thiện ông bà Thọ, Thu”

Tôi được biết ông bà có tên Thọ và Thu ấy đã bỏ tiền xây chiếc cầu này. Nghe người ở đây bảo ông bà ấy là Việt kiều Canada. Ông được Cậu Tư chữa khỏi ung thư. Thỉnh thoảng về nước họ vẫn ghé thăm Cậu Tư. Dòng kinh đen ngòm vẫn lờ đờ trôi những rác rưởi, mảnh bao ni lông… Đứng trên cầu nhìn bốn phía, nhà trọ, quán hàng, quán cà phê, tạp hoá… cái thụt cái thò, chen vai thích cánh. Duy nhất có 1 dãy nhà trọ xây gồm 7 phòng, mái lợp tôn. Dân ở đây nhờ có Cậu Tư mà đã tự phát phát triển bao nhiêu dịch vụ. Hàng nghìn người bệnh rách rưới từ khắp nơi đổ về đây vì thế cũng có chỗ che mưa che nắng, có chỗ mua thức ăn, nước uống, mua than, mua củi sắc thuốc… Không thấy một dấu hiệu nào của cái chính quyền “của dân, do dân và vì dân” của địa phương này ở đâu, ngoại trừ việc trình giấy chứng minh nhân dân. Chợt nhớ chuyện thời nhà Chu bên Tàu. Cách đây hơn hai ngàn năm, các quan sở tại thời đó còn biết cất những nhà quán xá ở dọc đường để cho khách thập phương tam đạo có chỗ nghỉ phòng khi bị lỡ độ đường… Gần mười tám năm rồi, sao người dân nơi đây không “đầu tư” những phòng trọ cho tử tế một chút nhỉ? Câu trả lời tôi vừa nhận được từ một ông chủ nhà: “Đầu tư thì giá thuê mắc, người nghèo lấy đâu ra trả. Họ chỉ cần 1 chỗ nằm thôi. Vả lại, biết Cậu Tư còn được cái khả năng ấy đến lúc nào?” Tôi giật thót mình. Cậu Tư đến một lúc nào đó, có thể sẽ mất đi cái khả năng kì diệu ấy sao?

Con đường nhựa lại đưa tôi ra ngoài lộ. Nghe nói ngày trước nó chỉ là một con đường đất lầy lội. Ngay đầu đường cũng trồng một tấm bảng đúc bằng xi măng, trên đó có ghi mấy câu thơ:

Từ giã nơi đây cổ nghẹn ngào
Hết bệnh mạnh giỏi nghĩa ơn sâu
Thân con nay còn – Cậu Tư giúp
Ơn này mang nặng đến đời sau

Phía dưới ghi tên họ những người đã góp tiền làm nên con đường này. Chả cứ gì họ. Ngay cả tôi, chứng kiến những kiếp người khốn khổ đang trầy trụa, nhẫn nhục chịu đựng dưới cái nắng nóng khắc nghiệt, trong những ổ chuột khổng lồ kia để cố níu kéo lấy sự sống của mình, nghĩ đến những gì đã chứng kiến từ hôm qua đến giờ, chính tôi cũng cảm thấy cổ họng nghẹn ngào. Trong óc tôi chợt hiện lên mấy câu thơ mộc mạc treo ngay nơi phát thuốc trong nhà Cậu Tư. Nghe nói mấy câu này là của Cậu Tư dành tặng Cậu Ba:

Bàn tay phục dược uy linh
Trần thân xả hết sức mình cứu nguy
Phước này non biển đâu bì
Tấm lòng quảng đại từ bi tuyệt vời

Miền Tây, một ngày cuối tháng 4 năm 2007

Nhà ngoại cảm và Đạo Phật – PV. nhà ngoại cảm PT Bích Hằng

•Tháng Một 10, 2008 • Gửi bình luận

Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng: “Những nơi chưa có chùa thì nên lập chùa; thanh tịnh và từ bi giúp siêu thoát”
(Theo Báo Giác Ngộ )

Phan Thị Bích Hằng sinh ra và lớn lên ở một vùng quê nghèo thuộc xã Khánh Hòa, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Năm 1990, khi vừa tròn 17 tuổi, Hằng bị chó dại cắn, sau 3 ngày đêm mê man bất tỉnh, bỗng sống lại và từ đó Hằng phát hiện mình có khả năng đặc biệt kỳ lạ: “Tiếp xúc với người cõi âm”. Tính đến nay, sau 17 năm nghe, thấy và nói chuyện với người bên kia thế giới, Bích Hằng đã tham gia tìm được trên 8.000 hài cốt liệt sĩ và hơn 1.000 hài cốt khác của bà con bị thất lạc mộ phần, trong đó có mộ liệt sĩ Vũ Thị Kính, em gái giáo sư Trần Phương (tên thật Vũ Văn Dung), Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội. Chúng tôi đã có dịp phỏng vấn nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng nhân “Trai đàn Chẩn tế bạt độ” cuối tháng 3 vừa qua tại chùa Linh Thắng, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.

– Hiện nay chị đang công tác ở cơ quan nào? Trước khi có khả năng “tiếp xúc với người cõi âm”, chị có theo tôn giáo nào không?

– Bích Hằng: Tôi hiện đang công tác tại Trường Đại học Quản trị kinh doanh Hà Nội và cũng là một trong những cán bộ của Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học Việt Nam. Gia đình tôi theo Nho giáo, cha là sĩ quan quân đội, mẹ là giáo viên. Từ khi phát hiện khả năng thấy, nghe và nói chuyện được với người cõi âm, qua tâm nguyện của các hương linh nhắn gởi, tôi có nhiều cơ hội đến với đạo Phật. Chính sự thanh lương, thánh thiện của quý thầy qua công năng tu tập và lời kinh tiếng kệ đã giúp cho các linh hồn nhẹ nhàng thảnh thơi, trút bỏ những giận hờn phiền não, dễ tha thứ cho nhau và mau siêu thoát.

– Cảm nhận của chị khi tham dự Trai đàn chẩn tế bạt độ?

-Bích Hằng: Tôi thật sự xúc động trước cái tâm và sự thánh thiện của chư tôn đức Tăng Ni cùng Phật tử nơi đây, đã khai mở pháp hội lớn như thế này để cho các hương linh được hưởng lộc Phật. Giá mà quý vị cũng được nhìn thấy “người cõi âm” như chúng tôi (phái đoàn có 7 nhà ngoại cảm cùng đi – NV), chắc chắn rằng quý vị cũng sẽ vô cùng xúc động bởi sau lễ “Nghinh phan sơn thủy”, tôi đã phải bật khóc khi trông thấy hàng trăm hương linh trong đó có cả cụ già, trẻ em, phụ nữ, người cụt cả chân tay, đui mù, tàn tật do nhiều nguyên nhân. Ai mạnh thì dìu kẻ yếu, trước sau lũ lượt vào đàn tràng ăn mày công đức nơi cửa Phật.

– Theo chị “người cõi âm” cần gì ở chúng ta?
Bích Hằng: “Tấm lòng”. Vâng! Tôi nhấn mạnh, người cõi âm rất cần ở chúng ta những tấm lòng và họ rất sợ bị người thân quên lãng. Có ai đó cho rằng chết là hết cho nên người “âm” dễ dàng bị lãng quên. Thực tế, hương linh rất sợ sự cô quạnh hẩm hiu, họ luôn trông chờ tình cảm tưởng nhớ của người thân nghĩ về họ. “Người cõi âm” không xài tiền, không ăn mặc như chúng ta, nhưng họ lại nhận ở chúng ta đầy đủ cả tấm lòng. Khi chăm sóc mộ phần, hài cốt, lo hương khói cúng giỗ v.v… thì “người âm” sẽ nhận được sự thành tâm của người dâng cúng.

– Giáo lý đạo Phật nói rất rõ về nghiệp lực của mỗi người. Theo chị, những hương linh mà chị đã từng gặp (trên 8.000 hương linh) là ai? Chị có bao giờ thấy địa ngục của người cõi âm chưa?

– Bích Hằng: Thế giới người âm rất phong phú, đa dạng, chia ra làm nhiều giai tầng chứ không chỉ có những người giác ngộ về đạo Phật. Còn số mạng ư? Làm gì có số mạng cho hàng ngàn chiến sĩ, nhân dân phải tử nạn trong chiến tranh gây ra! Chính vì vậy mà các oan hồn uổng tử vật vờ đau khổ khi bị chết oan, thậm chí có người thân xác đã không còn nguyên vẹn mà hài cốt lại bị chôn vùi trong rừng sâu, khe suối… không ai hay biết.

Tôi chưa thấy địa ngục của người cõi âm bao giờ, nhưng đã thấy rất nhiều các hương linh đau khổ vì nói không được do họ luôn bị canh giữ. Điển hình như trong chuyến tìm mộ liệt sĩ, khi đi ngang qua làng Thành Mỹ, xã Ninh Mỹ, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, tôi trông thấy một hương hồn thanh niên đầu cạo trọc, anh ấy muốn nhắn gởi tôi điều gì nhưng không nói được, bởi sau lưng anh có 2 bóng đen luôn ngăn cản không cho anh nói. Bên cạnh mộ anh thanh niên này, còn có mộ của một cụ già bê bết máu, cụ khóc và nhờ tôi nhắn với người thân hãy làm nhiều điều phước thiện mà cầu xin cho con trai, nó đang bị quỷ sứ canh giữ khổ sở lắm, hỏi ra mới biết cậu con trai đã giết cha và sau đó bị tử hình, hai cha con chôn chung một chỗ.

Còn có trường hợp, hương linh cụ bà thọ 80 tuổi rồi, nhưng cụ cứ về kêu gia đình lên chùa cầu siêu cho cụ. Gia đình đã lập 4 đàn tràng mà cụ vẫn cứ kêu khóc hoài, người nhà liên lạc với cơ quan quản lý tiềm năng con người và xin gặp tôi. Sau khi tiếp xúc với hương linh của cụ, tôi được biết trước đây gia đình cụ có nuôi một cô cháu gái (mồ côi) gọi cụ bằng dì, hồi nhỏ cụ thường xuyên đánh đập và cho cô cháu gái ăn cơm nguội “trộn với phân của con gián”. Bây giờ muốn cho cụ được thảnh thơi thì đứa cháu gái phải thắp nhang tha thứ cho cụ và trên bàn thờ phải cúng cho cụ 1 bát cơm trộn với phân của con gián thì cụ mới mong được siêu thoát.

– Chị đã nhắc đến rất nhiều hai từ “cầu siêu”; vậy theo chị, phương tiện cầu siêu trong đạo Phật giúp ích gì cho các hương linh?

– Bích Hằng: Tôi rất tin vào sự siêu độ của nhà Phật, bằng sự thanh tịnh và cả một tấm lòng từ bi của quý thầy qua lời kinh của Phật dạy, các hương linh nghe hiểu và sẽ xả bỏ được oan nghiệt, từ đó họ mới mong được sám hối và siêu thoát. Đó là những điều mà các hương linh thường nhờ tôi nhắn với gia đình nên cầu siêu cho họ; âm siêu thì thế giới cõi dương mới bình an (thái bình thịnh trị). Tôi mong sao một số tỉnh thành trên cả nước, tại những nơi mà chiến tranh xảy ra ác liệt nhất như: Quảng Trị, Quảng Nam, Điện Biên Phủ, các tỉnh Tây Nguyên, nhà tù Côn Đảo v.v…, những nơi chưa có chùa thì nên lập chùa và có nhiều trai đàn chẩn tế như thế này để cầu nguyện cho các anh linh, anh hùng tử nạn, các hương linh oan hồn chết oan ức vì nhiều lý do, để họ được nương nhờ công đức Phật mà mau siêu thoát.

Thú thật, thầy cúng thì rất nhiều nhưng tôi vẫn cứ nhờ đến nhà chùa bởi tôi tin vào sự đức độ và lòng từ bi thương xót chúng sinh bằng cái tâm trong sáng của quý thầy. Theo tôi, dù ở thế giới nào đi nữa thì chúng ta cũng phải đối xử với nhau bằng cái tâm thì mọi việc sẽ trở nên tốt đẹp và dễ dàng hơn. Tất cả mọi nét vẽ đều rất đẹp nếu chúng ta đặt bút xuống bằng một cái tâm, và chính cái tâm của người con Phật sẽ đem lại an lạc cho mọi cảnh giới.

-Cảm ơn chị đã dành cho bạn đọc cuộc trò chuyện thú vị này.

Linh Toàn (thực hiện)

Rồi ai cũng về cõi âm-Nguyễn Kiến Giang

•Tháng Một 10, 2008 • Gửi bình luận
Rồi ai cũng về cõi âm

Nguyễn Kiến Giang
(Ðầu năm 1993, tôi gặp anh Trần Văn Thủy ở nhà anh Trần Ðộ. Chúng tôi nói chuyên lan man với nhau, chẳng hiểu thế nào lại đụng tới chuyện đời sống tâm linh, và từ đó lại đụng tới chuyện cái chết. Thủy mượn bài “Con người và cái chết” của tôi. Ðọc xong, Thủy liền đề nghị tôi giúp làm một cuốn phim về chủ đề này. Tôi nhận lời. Tôi không biết viết kịch bản phim. Sản phẩm của tôi cuối cùng chỉ là bài bút ký này, trong đó có nhiều ý lấy từ bài viết kia. Hình như nó cũng gợi ý phần nào cho Thủy làm phim Một cõi tâm linh.)

*

Gần như đã thành một thói quen, đến nơi nào lạ, tôi thường đến viếng nghĩa trang nơi đó. (Nếu chợ là nơi phản chiếu phần nào đời sống vật chất thì nghĩa trang là nơi phản chiếu một phần văn hóa tâm linh của một địa phương). Có lẽ ít có đất nước nào lại có “sưu tập” nghĩa trang phong phú như nước ta. Những nghĩa trang có từ lâu đời đến những nghĩa trang mới tụ. Những nghĩa trang của nhiều tộc người khác nhau, mồ mả chôn cất kiên cố hay bị “bỏ” đi. Những nghĩa trang của người chết “thông thường” hay trong chiến tranh ác liệt. Những nghĩa trang của thường dân và của các bậc quyền cao chức trọng. Những nghĩa trang hiu hắt vài chục ngôi mộ và những nghĩa trang hàng nghìn mồ mả đến rợn người. Những nghĩa trang Trường Sơn kia, ai biết được hết những cung bậc tình cảm của người đến viếng…

Cảm giác khi đứng trước những nghĩa trang ấy cũng thật khác nhau. Những nấm mồ gây ấm lòng và những nấm mồ khiến buồn tê tái. Những nghĩa trang như nối dài cuộc sống bình thường và những nghĩa trang như sự kết thúc khủng khiếp của đời người.

Tôi quen một người đàn bà đã lớn tuổi. Gần hai mươi năm trời bà đi tìm mộ con, đứa con trai độc nhất, một trong vô vàn những chàng trai đã ngã xuốg trên chiến trường B, không tăm tích. Những bà mẹ của lính Mỹ chết trận tại Việt Nam, hai mươi năm sau họ còn lên tiếng đòi đưa thi hài con mình về nước. Họ nói với quốc hội Mỹ, họ nói qua báo chí, họ đòi con mình quyết liệt. Tôi chia sẻ tình cảm của họ, thật chân thành. Vậy là, tuy không có văn bản nào ghi cả, quyền đòi thi hài những đứa con chết trận đã thành một quyền con người thật sự. Người đàn bà đi tìm con gần hai mươi năm ấy, người mẹ Việt Nam ấy, không lên tiếng đòi gì cả, nhưng hãy nhìn những dấu chân bà – theo sau những dấu chân người lính – lần theo những địa chỉ không chỉ cái gì rõ ràng… Một dòng thư của bạn con bà báo về cái chết của thằng con trai một của bà, không thể vắn tắt hơn. Cái tên A La, nơi con bà chết ấy, không hề có trên bản đồ, cũng chưa có trong ký ức người dân. Nhưng bà vẫn đi tìm, từ nghĩa trang này đến nghĩa trang khác ở một vùng vô danh. Cho đến mùa hè năm nay, bà vẫn đi tìm con như bao năm trước… hết hy vọng đến vô vọng. Không biết có bà mẹ Mỹ nào âm thầm tìm kiếm dấu vết con mình như bà? Mà ở Việt Nam, đâu chỉ có một mình bà? Một con số có lẽ tất cả chúng ta đều cần biết: khoảng ba mươi vạn người mất tích trong cuộc chiến. Còn con số liệt sĩ được biết là khoảng một triệu…

Ở đất nước này, chúng ta mặc niệm những người ngã xuống trong chiến đấu với tiếng nhạc Hồn tử sĩ rất đỗi thân quen. Vâng, họ chính là những tử sĩ mà hồn tạo nên những luồng linh khí bay lượn trong cõi vô cùng, như một câu thơ trong Chinh phụ ngâm: “Hồn tử sĩ gió ù ù thổi…”

*

Mồ mả… Trên mặt đất, đâu chẳng có mồ mả. Tôi không nghĩ rằng chỉ người Việt mới tôn trọng mồ mả cha ông. Nhưng sự tôn trọng này ở người Việt quả là có một sắc thái riêng. Mồ mả là chốn thiêng liêng nhất trong tâm thức người Việt. Mồ yên mả đẹp bao giờ cũng là phần thưởng lớn nhất và cũng là cuối cùng của một đời người. Vì thế, xúc phạm mồ mả bao giờ cũng bị coi là một trọng tội, hơn nữa, một tội ác tày trời, không tội ác nào sánh tày. Ðối với người Việt, một dân tộc trải qua nhiều cuộc chiến đấu chống xâm lăng mà các nhà sử học coi đó là nét chủ đạo của toàn bộ lịch sử dân tộc, tội ác gì là ghê gớm nhất của những kẻ phản dân hại nước vậy? Ðó chính là tội “rước voi về dày mả tổ”. Ðúng thế, xúc phạm đến mồ mả chững người đã khuất là một tội ác “trời không dung, đất không tha”. Ngày xưa là thế, ngày nay cũng thế.

Vậy mà, trong khi những bà mẹ héo hắt đi tìm dấu vết con mình, như bà mẹ trên đây, lại có những kẻ đang tâm phá mồ mả. Ðể lấy của (có thật hay tưởng tượng), họ phá các lăng mộ của vua chúa, phá cả nơi yên nghỉ của các nhân vật lịch sử. Một chuyện mới xẩy ra, đụng tới Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Phi Khanh – thân phụ Nguyễn Trãi, vị anh hùng cứu nước, danh nhân văn hóa kiệt xuất thế kỷ XV- bị quân Minh bắt về Trung Quốc. Ông mất ở đó. Sau khi thất bại, tướng nhà Minh là Vương Thông không quên ơn Nguyễn Trãi tha tội chết cho cả đạo quân xâm lược thua trận, khi về nước đã tìm mộ Nguyễn Phi Khanh và cho đưa hài cốt ông về Việt Nam. Nguyễn Trãi chôn cất cha mình trên núi Yên Tử, giữa những đám mây mù bảng lảng. Mấy trăm năm, Nguyễn Phi Khanh nằm trên núi cao vòi vọi, giữa thiên nhiên trường cửu. Nhưng ngôi mộ Nguyễn ấy đã bị đào bới…

Cũng mới đây, ở Quảng Trị, vùng đất lửa trong chiến tranh, một chuyện kinh khủng xẩy ra, làm nhức nhối lòng người cả nước. Một lũ người làm hàng nghìn ngôi mộ liệt sĩ giả để bỏ túi hàng trăm triệu đồng kinh phí Nhà nước cấp cho để tìm kiếm, qui tập và xây dựng nghĩa trang liệt sĩ. Xương súc vật được dùng thay xương người. Một bộ hài cốt chia ra, mỗi ngôi mộ một ít… Những kẻ đầu têu bị lãnh án đích đáng: tử hình.

Những chuyện khốn kiếp ấy, may thay, không nhiều và bị ngăn chặn kiên quyết. Nhắc lại những chuyện này cũng là điều bất đắc dĩ.

*

Mồ mả ở các vùng quê Việt Nam từ xa xưa đã trở thành một bộ phận thân thuộc của cảnh quan. Trừ các thành phố và một số nơi có nghĩa trang tập trung, nói chung ở nông thôn, con cháu cày cấy bên cạnh mồ mả cha ông nằm rải rác trên đồng ruộng. Người đang sống và người đã chết vẫn liền kề nhau, dù ở hai cõi âm – dương khác nhau. Ðó là thể hiện cách hiểu âm – dương không phải là hai cõi cách biệt trong tâm thức dân gian, hay đó là sự cố gắng để cho cõi âm không xa lánh hẳn cõi dương? Không thể trả lời rành mạch được. Chỉ có điều là trong tâm thức người Việt, sự cách biệt âm – dương không bao giờ là tuyệt đối.

Bạn hãy nhìn dãy núi xanh lam kia (xin nói thêm: gần như ở nơi nào trên đất nước Việt Nam người ta cũng có thể nhìn thấy núi ở phía trời Tây, trừ đồng bằng Nam Bộ). Người Việt hay dùng mấy chữ “khuất núi” để chỉ sự ra đi của một con người. Khuất núi nghĩa là vẫn ở trên mặt đất này nhưng ở bên kia núi: sự xa cách được rút gần lại. Núi ở Việt Nam nói chung cũng là ở phía trời Tây, mà theo tín ngưỡng từ thời rất xa xưa, không rõ bắt nguồn từ đạo Phật hay từ đạo Lão, những tôn giáo này coi phương Tây là hướng thiêng liêng nhất, là tượng trưng cho sự bất tử và cõi cực lạc. ở miền Trung quê tôi, người ta chôn cất người chết đầu quay về núi, có lẽ vì thế. Núi là nơi kết tụ linh khí đất nước, giữ vị trí chủ đạo trong cảnh quan.

Ở đây chúng ta bắt gặp thêm một nét quan trọng trong tâm thức người Việt: cõi âm là cõi thân thuộc, cõi vĩnh hằng của con người. Không phải đi sang cõi âm mà là “về” cõi âm. Về – từ này hàm ý một sự trở về lại nơi cũ. Về cõi âm có nghĩa là về lại nơi gốc gác của con người. “Sống gửi thác về” – dù quan niệm về nơi cư trú của con người sau khi chết là ở đâu đi nữa, người Việt bao giờ cũng dùng từ “về” để chỉ sự trở về của con người sau khi sự sống kết thúc: về trời hay về cõi âm là cùng một ý. Hồi nhỏ, đi theo những đám tang, lòng tôi không ngớt nao nao vì một câu hò tiễn biệt:

Hò đưa linh, (là) hò đưa linh
Vong linh nay đã về trời
Chèo ba (ơi mà) nhịp bảy
Ðưa người (xa) cách xa…

Một con thuyền vỗ sóng, mái chèo đưa đẩy nhịp nhàng, con thuyền lướt nhẹ trên mặt đất về nơi an nghỉ của người vừa mất, về nơi phần mộ được dành cho. Về không chỉ là có cái gì đó tiếp nối sự sống sau khi chết, đó còn hơn là một sự tiếp nối đơn thuần, đó là sự tồn tại vĩnh hằng, là sự trở lại mãi mãi với cõi thiên đường, hay cõi Niết bàn, hay một cõi mung lung nào đó, nhưng chắc chắn không phải đi sang cõi địa ngục.

*

Trong tín ngưỡng của người Việt, không có chỗ dành cho địa ngục chăng? Có, người Việt cũng có ý niệm về địa ngục như sự trừng phạt đối với cái ác của con người khi còn sống. Thuở nhỏ, lũ chúng tôi hay ra chơi ở chùa làng. Phần lớn những ngôi chùa làng đều có hai pho tượng Ông Thiện – Ông Ác, nhưng lũ chúng tôi sợ nhất là những cảnh trừng phạt của Diêm Vương dưới âm phủ. Ăn ở hiền lành, chẳng những sẽ được về trời êm thấm, mà còn tránh được những hình phạt ghê gớm sau khi chết: bỏ vào vạc dầu đun sôi, cưa thân hình làm đôi, bắt qua cầu có hàng đống rắn rết ngóc lên chực mổ vào người…

Nhiều thế hệ ngày xưa có lẽ một phần vì sợ hãi trước những cảnh trừng phạt khủng khiếp nơi địa ngục kia nên tránh được điều ác khi còn sống chăng? Tôi không muốn sa vào câu chuyện đạo đức thiện – ác ở đây, tôi chỉ muốn nói rằng con người ngày xưa thường tính tới những gì xẩy tới sau khi chết, họ biết trù tính cho mình một cuộc đời sau khi chết. Nghĩa là họ tin chắc chắn rằng chết không phải là hết…

Chết không phải là hết. Niềm tin ấy có còn cần thiết nữa không, có cần phải được chứng minh theo lối duy lý không, hãy để những câu hỏi ấy cho các nhà triết học trả lời. Riêng tôi, bằng một sự cảm nhận trực giác nào đó, tôi nghĩ rằng cha ông ta đã hoàn toàn đúng khi tin chắc rằng chết không phải là hết. Chết là bước sang một cuộc đời khác, và ở đó người ta thụ lĩnh hậu quả tốt hoặc xấu của cuộc đời tước đó. Và bây giờ, bạn thử tưởng tượng xem người ta sẽ dễ dàng phạm tội ác như thế nào nếu không hề băn khoăn chút nào về những gì đón đợi mình sau khi chết. Phải chăng đó là mảnh đất nuôi dưỡng mọi thứ tôn giáo trên thế giới này? Và dù không theo hẳn một tôn giáo nào, tôi vẫn cho rằng niềm tin “chết không phải là hết” ít nhiều mang màu sắc tôn giáo ấy giúp cho người ta sống tử tế hơn nhiều. Vâng, tôi không theo một tôn giáo nào cả, nhưng cứ mỗt lần nghe những lời tụng niệm nguyện cầu cho người chết về nơi vĩnh hằng, tôi càng cảm nhận rõ hơn, sâu sắc hơn rằng “chết không phải là hết”.

*

Ai chết đó, nhạc sầu chi lắm thế,
Chiều mồ côi đời rét mướt ngoài đường…
(Huy Cận)

Chết là nỗi buồn, nỗi đau lớn nhất của con người. Hoài vọng về sự bất tử không thể nào che lấp sự mất mát cuộc đời hiện hữu. “Chết không phải là hết” – điều đó không bao giờ bù đắp trọn vẹn cho cảm giác đáng sợ “chết là hết”. Sự tiễn đưa cuối cùng nào cũng để lại một sự trống vắng trong tâm hồn. Vì thế, lễ tang là lễ trọng đại nhất trong cuộc đời mỗi người. Sinh ra là một thời điểm trọng đại. Lớn lên, lấy vợ lấy chồng cũng là một thời điểm trọng đại. Về già, lên lão, lại là một thời điểm trọng đại khác nữa. Mỗi thời điểm ấy đều được đánh dấu bằng những nghi thức trang trọng hay đơn sơ tùy ý. Nhưng không có nghi thức nào ở người Việt được cử hành trang trọng như lễ tang. “Nghĩa tử là nghĩa tận” – chúng ta không tự cho phép mình sơ xuất đối với lễ tang một người thân, một người bạn.

Những đám tang ngày ngày hiện lên trước mắt. Những đám tang hết sức khác nhau ở nông thôn và thành thị, của thường dân và của người nhiều danh vọng, của tín đồ đạo Phật và đạo Kitô, hay không của đạo nào cả, của nhà nghèo và nhà giàu… Hết sức khác nhau, nhưng cũng hết sức giống nhau ở những nét mặt buồn rười rượi của bạn bè, thân thích tiễn đưa… Lòng tôi chết lặng đi trong những đám tang lặng lẽ của tin đồ Kitô giáo, không nghe thấy một tiếng khóc to. Lòng tôi bị xé trong những đám tang có tiếng khóc gào thét của mẹ khóc con, vợ khóc chồng, con khóc cha…

Ngày xưa làng nào cũng có sẵn một bộ lễ tang được dân làng bảo quản cẩn thận nhất. Nhưng rồi có một thời, do hiểu sai lạc, người ta muốn làm tang lễ theo “kiểu mới”, chỉ cần xúm nhau khiêng cỗ quan tài trần trụi đi chôn cất, hoặc đặt quan tài lên một cỗ xe ba gác đẩy đi. Có phần hiểu sai lạc, nhưng cũng có phần do hoàn cảnh chiến tranh. Một trận máy bay trút bom xuống là hàng chục, hàng trăm người chết, không nguyên vẹn hình hài. Chỉ có thể giành lấy những lúc tạm ngớt tiếng bom đạn để chôn cất người thân. Lấy đâu ra những nghi thức, những phương tiện cần thiết để làm một lễ tang chu tất, đàng hoàng!

Biết bao nhiêu thứ phong tục hỗn hợp trong một lễ tang. Có thể nhìn thấy ở đó những cái hợp lý và những cái phi lý, nhưng hãy khoan vội phán xét khi chưa biết rõ những nghi thức đó. Một điều chắc chắn là những nghi thức đó đều chứa đựng một cốt lõi không thể xóa mờ: thương xót, tiếc nuối người đã mất và đưa họ – cả thể xác lẫn linh hồn – thật yên lành, không để họ cô đơn, mất đường về với bà con thân thích. Tiễn đưa, nhưng không vĩnh biệt mãi mãi. Bạn hãy nhìn những đốm vàng mã rắc trên đường kia, đó là để đánh dấu đường về cho linh hồn người chết. Bát cơm – ân huệ đầu tiên và cuối cùng của trời đất dành cho con người. Quả trứng – biểu hiện một vòng tái sinh… Người Việt chăm sóc người chết chẳng khác mấy với chăm sóc người sống.

Ngôi mộ là nhà ở mới của người qua đời.Và ngôi nhà mới ấy cũng phải được chọn đất, chọn hướng cẩn thận như khi dựng một ngôi nhà ở của người đang sống, có khi còn cẩn thận hơn. Hướng phải theo thuật phong thủy, đất huyệt phải khô ráo và có màu tươi. Ðộng mồ động mả là chuyện chẳng lành, có thể đó là nguyên nhân gây ra những nỗi bất hạnh cho người đang sống.

Lễ tang không kết thúc ở ngôi mộ vừa đắp. Lễ tang còn kéo dài nhiều năm tháng với sự chịu tang. Những vành khăn trắng trên đầu ghi nhận nỗi thương tiếc khôn nguôi đối với người vừa mất, nhắc nhở người ta sống cho tử tế.

*

Nhưng có những người chết không có phần mộ được ngưòi thân chăm sóc cẩn thận như vậy. Ðó là những người bất hạnh, không nơi nương tựa. Khi sống họ rất cô đơn. Chết đi họ biến thành những cô hồn. Chúng ta không quên họ. Họ được mọi người thay cho người thân chăm sóc. Những kỳ tảo mộ, sau khi dẫy cỏ và vun nấm cho những ngôi mộ thuộc gia đình mình, người ta không quên sửa sang lại những nấm mồ vô chủ. Cô hồn không có ngày giỗ riêng thì mọi người dành riêng một ngày để cúng họ, ngày rằm tháng bảy âm lịch. Tiết trời lúc đó cũng như chia sẻ nỗi buồn chung. Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt… – Nguyễn Du mở đầu Văn chiêu hồn bằng trời đất mưa sầu gió thảm ấy. Không biết những linh hồn cô đơn kia có được an ủi phần nào không, nhưng lòng người đang sống quả là thêm phần thanh thản. Thôi thì ít ra lễ cúng cô hồn ấy cũng dạy cho người ta đừng quên những kẻ cô đơn. Ôi, nếu đạo lý ấy được nhớ đến, được thực hiện trong cuộc đời hiện hữu này…

Cũng vào dịp này, theo một phong tục xa xưa, người ta đốt vàng mã cho người thân đã mất. Mời bạn đi với tôi đến phố Hàng Mã, ngay giữa khu phố cổ của Hà Nội. Tất cả những gì người sống dùng, người chết cũng được hưởng. Nhà cửa, áo quần, xe cộ, cho đến những con chó Nhật, những máy thu hình, những đồng đô-la… tất tật, không thiếu thứ gì. Chỉ có điều là tất cả những thứ đồ cúng ấy đều làm bằng giấy để đốt đi sau khi cúng. Người ta nghĩ rằng những thứ đó sẽ đến tay người thân đã chết và không để họ thiếu một thứ gì, “trần sao âm vậy”. Một anh bạn tôi, tiến sĩ nghệ thuật hẳn hoi, cho tôi biết anh vừa đốt cho “ông cụ”, một họa sĩ nổi tiếng, cả một bộ Âu phục kèm theo một bộ “đồ ta”. Anh bạn tôi kể lại chuyện này với vẻ mặt hài lòng không cần che giấu.

Chuyện vàng mã chắc chắn không liên quan gì với chuyện mỹ học. Nhưnng bạn nhìn kỹ mà xem, những vật đem đốt ấy đẹp làm sao, tinh tế làm sao. Tôi không nói đó là những tác phẩm nghệ thuật, nhưng là những sản phẩm mỹ nghệ thì không thể chối cãi. Tôi chợt nghĩ: phải chăng cái đẹp cũng cần thiết cho cả những người ở cõi âm? Tại sao lại không nhỉ! Và nếu quả thật như thế, thì phải chăng khoảng cách giữa sự sống và cái chết được rút ngắn thêm phần nào?

Chung quanh câu chuyện vàng mã đã xẩy ra bao nhiêu sự tranh cãi, thậm chí cả những lời lên án gay gắt. Tôi không có thẩm quyền phán xét. Tôi chỉ làm công việc cảm nhận nghệ thuật vàng mã. Nếu có ai hỏi tôi: vàng mã có cần thiết không, tôi xin chịu, không trả lời được. Nhưng nếu hỏi tôi vàng mã có
đẹp không, tôi trả lời không ngần ngại: đẹp!

*

Từ bao đời nay, người ta tranh cãi nhau có hồn hay không có hồn. Người Việt xưa và cả nay nữa, hầu hết đều tin là có hồn. Hồn là một tầng, và là tầng cao nhất, của mọi vật thể. Từ ngày còn ấu thơ, tôi hằng nghe nói tới “hồn sông núi”, “hồn cây cỏ”, “hồn người”… Vào cuộc đời, làm quen với nghệ thuật, lại được làm quen với những “hồn tranh”, “hồn thơ”…, với những tác phẩm được gọi là “có hồn”. Thật khó quan niệm một sự sống, một vật sống không hồn.

Hồn là vô hình. Nhưng hồn cũng là riêng của từng người. Người đang sống có thể gọi hồn người chết về. Có hẳn một số người – bây giờ thường gọi là những “nhà ngoại cảm” – được coi là có khả năng gọi hồn. Tin hay không tin, tùy bạn. xin mời bạn đến dự một buổi “gọi hồn”, cũng thường được gọi là “ngồi đồng”. Bạn nhìn kỹ xem những người sắp sửa lên đồng, nghĩa là sắp có hồn một người chết nhập vào họ. Những con người bình thường như mọi con người khác. nhưng khi họ lên đồng, mắt họ long lanh, mặt ửng đỏ và nói những lời không phải là của họ nữa. Họ tự giới thiệu mình là ai, từng sống và chết như thế nào, và căn dặn những người thân đang sống những lời tha thiết… Nhận ra hồn người thân mình (đúng hay không đúng) người nghe xúc động mạnh và nhiều khi khóc to lên như chưa bao giờ được khóc. Một sự “bùng nổ nước mắt” thật sự. Những cuộc lên đồng như vậy trước đây cũng như hiện nay, thường bị lên án là “mê tín dị đoan”. Có phần cũng như thế thật, nhưng có thật hoàn toàn như thế không? Riêng tôi, tôi chỉ rút ra từ đó một suy nghĩ: nếu người chết vẫn còn hồn đang sống và sống ngay chung quanh chúng ta, giữa chúng ta, hẳn chúng ta sẽ sống khác đi nhiều. Tôi chưa tin hẳn là có hồn, nhưng từ trong sâu lắng, tôi muốn, rất muốn có hồn. Lý do thật giản dị: có hồn, con người “chết không phải là hết”, hơn nữa, những mất mát lớn nhất của con người có thể được đền bù phần nào để con người sống yên hơn, mà sống yên chính là một trong những mong ước lớn nhất của mọi con người…

Có lẽ vì thế, người ta dùng đến cả thuật “chiêu hồn nhập cốt”. ở vùng quê tôi, từ hồi còn bé, tôi đã được dự nhưng buổi “chiêu hồn” như vậy. Nghi thức cũng đơn giản thôi. Gia đình nào có người thân chết mất xác (không tìm thấy được thi thể), thường mời một “thầy phù thủy” (pháp sư) đến làm lễ. Người ta kiếm một chiếc tiểu sành, đặt một hình nộm bằng cây dâu vào đó làm “cốt”, bên trên phủ một tấm giấy có ghi tên họ, quê quán… của người chết. Rồi thầy làm lễ mời hồn về nhập vào “cốt” và cử hành một lễ tang như thật, đưa chiếc tiểu từ nhà ra đến huyệt, có người thân mặc đồ tang đi theo. Chôn cất xong, người ta đắp lên một nấm mồ và coi nấm mồ giả ấy như một nấm mồ thật. Không biết hồn có về nhập vào cốt không, nhưng người trong gia đình đúng là có nguôi đi nỗi thương xót ít nhiều.

*

Với tất cả những thái độ và những nghi thức đối với cái chết nói trên, người Việt có phải là một tộc người có tôn giáo không? Một số nhà nghiên cứu cho rằng người Việt không có tôn giáo. Trước đây tôi cũng nghĩ như thế. Nhưng gần đây tôi thấy không hoàn toàn như thế. Không phải chỉ vì ở Việt Nam hiện có những cộng đồng tôn giáo khá lớn, nhất là của Kitô giáo và Phật giáo. Mà ngay cả ở những người Việt không theo hẳn một tôn giáo nào, theo tôi, cũng mang một niềm tin nào đó mang màu sắc tôn giáo. Không chỉ có niềm tin, còn có những nghi thức mữa. Bạn hãy vào bất cứ một ngôi nhà nào, bạn sẽ nhìn thấy ở nơi trang trọng nhất hiện ra bàn thờ tổ tiên. Tin vào sự trường tồn của tổ tiên, thờ cúng tổ tiên là một phong tục lâu đời không thể xóa bỏ được, của người Việt. (Nhân thể, xin nói rằng ngay cả những tôn giáo bài xích thờ cúng tổ tiên, nhưng để có chân đứng trên mảnh đất Việt Nam, cũng phải thừa nhận và cho phép sự thờ cúng vô cùng thiêng liêng này).

Ngày xưa, bàn thờ tổ tiên được bài trí rất công phu. Những khám thờ với những chiếc bài vị ghi rõ tên họ các vị tổ tiên được thờ, đặt sau chiếc lư hương nghi ngút hương trầm và những cây đèn sáng trưng, những bát hương cổ kính… Ngày lễ, ngày giỗ, con cháu quỳ lạy trước bàn thờ. Bây giờ những bàn thờ tổ tiên được bày biện như vậy không còn mấy nữa, thay vào đó là những bàn thờ bày biện đơn giản hơn, nhỏ hơn, nhưng không kém phần nghiêm túc và thiêng liêng.

Ðúng, thờ cúng tổ tiên không phải là một tôn giáo, nếu hiểu tôn giáo phải có giáo lý và giáo hội chặt chẽ. Nhưng nếu hiểu tôn giáo như niềm tin sâu sắc của cá nhân và cộng đồng vào một cái gì thiêng liêng, siêu việt, như một sự hướng thượng của đời sống tâm linh con người, thì tôi có thể nói chắc rằng thờ cúng tổ tiên cũng là một thứ tôn giáo. Thứ tôn giáo này không thờ một thượng đế mà thờ tổ tiên, không có giáo lý nào khác ngoài giáo lý “uống nước nhớ nguồn”, không có giáo hội nào ngoài gia đình và gia tộc. Có thể nó không cao siêu lắm nhưng không vì thế mà không sâu sắc, không đi vào tiềm thức con người. Và chắc chắn nó là một tôn giáo hoàn toàn tự nguyện đối với những ai tin theo. Nếu cần đặt tên cho tôn giáo này, có thể gọi đó là đạo Hiếu.

Hiếu với tổ tiên là đạo lý cao nhất của tôn giáo này. Tổ tiên vừa thiêng liêng vừa thật gần gụi. Thượng đế nằm ở ngoài ta, còn tổ tiên nằm ngay trong chính bản thân ta. Dòng máu của ta chảy từ dòng máu tổ tiên ta. (Nói theo ngôn ngữ khoa học hiện đại, cơ sở của sự tờ cúng tổ tiên là những hồi ức về di truyền còn được gọi là “di truyền văn hóa”).

Tôi không rõ việc ghi chép gia phả có phổ biến owr các nước khác không, nhưng ở Việt Nam, đó là một truyền thống lâu đời. Có thời, việc này bị coi là “tàn dư phong kiến”. Nhưng hiện nay nó được phổ biến rất rộng. Nhiều người lao mình vào cuộc đấu tranh hàng 40 – 50 năm nay, tưởng đã quên mất tổ tiên mình, chỉ còn biết những sự nghiệp lớn lao của dân tộc, của giai cấp và nhân loại, hóa ra họ đang cất công đi tìm cái cội nguồn rất cụ thể của mình trong những di sản gia đình còn sót lại, phủ đầy bụi… Gia phả bằng chữ Hán thì nhờ dịch lại, bằng chữ quốc ngữ thì ghi thêm. Tổ tiên từ nơi mơ hồ nào đó hiện rõ với những tên tuổi và hành trạng của từng người. Những người chết đang sống lại trong lòng con cháu. Nghĩa là “chết không phải là hết”. Không biết khi làm công việc sưu tầm và bổ sung gia phả này, người ta nghĩ nhiều hơn tới tổ tiên hay tới bản thân mình? Tôi cho rằng có cả hai lý do đó (mà thật ra cũng chỉ là một). Ði tìm lại dấu vết tổ tiên, nhắc nhở mọi người nhớ tới tổ tiên, đó là đạo Hiếu đối với những thế hệ đã qua. Nhưng trong khi làm công việc này, chắc hẳn người ta cũng nghĩ rằng con cháu mình mai sau vẫn sẽ nhớ tới mình, giống như mình tưởng nhớ tới cha ông… Sự sống con người hiện tại, qua quá khứ tìm thấy lại, mhư được kéo dài tới tương lai. Sự sống đã có bộ mặt trường cửu dễ nhận biết. Cái chết chỉ là một dấu ngắt trong một bài văn dài…

*

Trong mạch thời gian vừa đứt đoạn vừa liên tục ấy, sự sống và cái chết đổi chỗ lẫn nhau. Sự tôn trọng đối với người đã chết hòa chung với sự tôn trọng đối với người còn sống. Ðạo Hiếu thể hiện đối với những tổ tiên đã khuất, cũng như đối với những người lớn tuổi trong gia đình, đối với ông bà, cha mẹ. Sự thể hiện đạo Hiếu có khi cũng đi quá đà. Người ta thờ cúng cả người đang sống, hay nói đúng hơn, người đang sống tự thờ mình trong một “Sinh từ”, khiến thiên hạ đàm tiếu, chê bai. Nhưng đó chỉ là những trường hợp hi hữu. Người Việt không thờ cúng người đang sống, dù đó là bố mẹ già như ở một vài nơi châu Phi. Nhưng chúng ta chăm sóc bố mẹ già hết lòng, việc đưa bố mẹ già vào “trại dưỡng lão” là xa lạ đối với chúng ta, trừ những người không có ai để nương tựa. Ðược phụng dưỡng cha mẹ già là một niềm vui. Người già sống giữa con cái, cháu chắt quây quần chung quanh cũng là một niềm vui. Ngày nay ở các thành phố, những gia đình gồm ba thế hệ – ông bà, cha mẹ, con cái – sống chung dưới một mái nhà ngày càng ít dần, có lẽ do điều kiện nhà ở chật chội hơn là do sự lan rộng của “gia đình hạt nhân”. Ngày xưa, ở nhiều nơi, nhất là ở nông thôn, ba thế hệ sống chung nhau là khá phổ biến. Nhưng đứa con do bố mẹ đẻ ra và nuôi nấng vẫn quấn quít với ông bà, vẫn nằm trong lòng bà trên chiếc võng tre đung đưa, nghe bà kể chuyện Tấm Cám, chuyện Phạm Công Cúc Hoa, chuyện bà con hàng xóm, ngườ xa kẻ gần… Chúng bú sữa mẹ nhưng còn bú cả sữa tinh thần của bà.

Giữa những người thân thương như vậy, cái chết đến với người già không lạnh lùng lắm, như khi người ta đón cái chết chỉ có một mình. Thậm chí người già còn chứng kiến sự chuẩn bị cho cái chết sắp tới của mình, khá bình thản. Ðây, chiếc quan tài sắm trước đặt ngay dưới bàn thờ hay ở đầu hồi, chưa sơn quét, và còn dùng để chứa vài thùng thóc ngừa lúc giáp hạt. Trước khi được đưa xuống huyệt, nó cũng chia sẻ niềm vui nỗi buồn trong nhà, như những đồ vật thân thuộc khác.

Người già làm quen với cái chết như quen với những ngôi mộ gần gũi nằm giữa ruộng đồng cũng gần gũi, như quen với dãy núi xanh lam ở phương trời Tây kia. Một vòng đời đi qua, giống như một vòng đường từ nhà ra đồng, lên núi, rồi lại về nhà… Vậy đó!

*

Trời chưa sáng… Tôi mơ màng một lúc trước khi tỉnh dậy hẳn. Từ phía một nhà hàng xóm vang tới tiếng kèn tang não nuột. Lại một người vừa ra đi. Một nỗi buồn không cưỡng được. Nhưng không có gì thật đáng sợ. Như một qui luật tự nhiên không muốn có, tâm thức người Việt thấm vào tôi thật sâu lắng. Cái chết bao giờ cũng là một nỗi buồn ghê gớm, nhưng ngay từ trong những nhịp sống hàng ngày hôm nay, tôi bình thản chờ nó. Nó giống như một tấm gương soi, vô hình nhưng luôn luôn hiện hữu. Một cuộc sống tử tế hẳn sẽ được thưởng bằng một cái chết tử tế. Trong sự tiễn đưa ấm áp của người thân, của bạn bè, trong sự đón nhận cũng ấm áp của đất trời…

Tháng tư 1993

Nhà Ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng

•Tháng Một 10, 2008 • Gửi bình luận

 

Hầu hết các nhà ngoại cảm ở VN có được khả năng kỳ lạ là do một biến cố trong đời. Có người bị điện cao thế giật (ông Nguyễn Văn Chiều), có người qua trận sốt hoặc trận ốm thập tử nhất sinh thì trở thành nhà ngoại cảm.
Trong số những người trải qua biến cố thành nhà ngoại cảm thì ly kỳ nhất phải kể đến Phan Thị Bích Hằng. Con đường trở thành nhà ngoại cảm của Bích Hằng vô cùng gian nan, kỳ lạ và nhiều nước mắt.
Phan Thị Bích Hằng sinh ra và lớn lên ở một ngôi làng nghèo thuộc xã Khánh Hòa, Yên Khánh, Ninh Bình. Năm 1990, khi 17 tuổi, vừa thi đại học về, Hằng cùng một cô bạn gái đang đi trên đường bỗng có một con chó nhảy xổ ra cắn. Hằng bị cắn vào chân trái, cô bạn gái bị cắn vào tay trái.
Cũng như người dân ở các vùng nông thôn, Hằng và cô bạn cảm thấy chuyện bị chó cắn rất bình thường, rồi quên ngay sau đó. Vài ngày sau khi bị chó cắn, Hằng nhận được giấy báo đỗ đại học.
Khoảng một tháng sau, cô bạn đột nhiên không nói được nữa, hàm răng cứng lại. Nghĩ là bị đau răng, Hằng đưa cô bạn đi khám. Bác sĩ nha khoa kiểm tra và khẳng định không phải do đau răng. Hai người lại đèo nhau đến Bệnh viện Quân y 5 Ninh Bình.
Sau khi khám xét, bác sĩ bảo bạn gái của Hằng có triệu chứng của người bị bệnh dại. Tưởng như đất dưới chân sụt xuống, tử thần đã nắm tay mình dắt đi, Hằng nói như người mất hồn: “Đúng như vậy. Cháu và cô bạn đều bị một con chó cắn”. Sau hôm đó, Hằng cũng hôn mê bất tỉnh. Cô bạn thân thì đã qua đời.
Gia đình đưa cô đi chữa trị nhiều nơi, bằng cả Đông y lẫn Tây y, song các bác sĩ, thầy lang đều lắc đầu, bởi bệnh này từ xưa đến nay không ai chữa khỏi. Khi đến nhà một ông thầy lang theo Thiên Chúa giáo, ông xem xét kỹ biểu hiện cơ thể rồi nói một câu an ủi: “Chúa lòng lành sẽ che chở cho con”.
Sau đó, ông bảo người con trai ra nghĩa địa lấy một mảnh ván mà người ta vừa bốc lên hôm trước, rồi bào chế với vài vị thuốc. Để giành giật giữa sự sống và cái chết, gia đình Hằng liền cho cô uống ngay vị thuốc khủng khiếp này.
Sau khi uống thuốc, ông thầy lang bảo với bố mẹ Hằng: Sau 3 tiếng đồng hồ cháu sẽ cảm thấy nóng khắp người, lên cơn sốt mê man, nói sảng, thậm chí lên cơn điên cắn xé. Nếu 3 ngày sau cháu hết cơn thì cháu sống được còn nếu lên cơn trở lại thì cháu không sống được nữa. Tôi rất muốn cứu cháu nhưng khả năng của tôi chỉ có vậy.
Đúng như lời ông thầy lang nói, 9h tối Hằng lên cơn cắn xé điên cuồng, đến 11h đêm mới thiếp đi. Ngày thứ nhất, ngày thứ hai không thấy triệu chứng gì. Ngày thứ ba, khi cùng người anh trai của cô bạn gái đã mất ra mộ thắp hương thì đột nhiên Hằng cảm thấy có một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng. Hằng liền nói: “Anh đưa nhanh em về, em sắp lên cơn điên rồi”. Từ đấy, Hằng không còn biết gì nữa.
Đến 1h sáng hôm sau, gia đình không còn hy vọng bởi Hằng đã hoàn toàn tắt thở. Bình thường, những người trẻ tuổi như Hằng ở quê được khâm liệm rất nhanh rồi đem chôn, không tổ chức lễ tang, kèn trống.
Thế nhưng, có một ông cụ dạy chữ nho ở làng rất giỏi tử vi vào nhà Hằng, sau một hồi tính toán, ông bảo: “Thứ nhất, chưa qua giờ Thìn không được khâm liệm cháu; thứ hai, cứ để nó nằm như thế, không được thắp hương”.
Lúc đó, một ông bác sĩ nói: “Tốt nhất đậy mặt cháu lại, để gia đình đi chuẩn bị cho cháu, tại sao cụ lại nói vậy”. Ông cụ đó nói tiếp: “Các anh thì có cả một nền y học hiện đại, còn tôi chỉ là tàn hương nước thánh, nhưng tôi khẳng định nó không chết”.
Nghe cụ già và bác sĩ tranh cãi, gia đình Hằng rất hoang mang, không biết xử trí thế nào. Thế nhưng, ai đi mua gỗ đóng quan tài cứ đi, ai ngồi chờ xem lời ông cụ linh ứng thế nào thì cứ chờ.
Hồi khắc khoải chờ chết, Hằng có hỏi bố (bố Hằng là quân nhân): “Vì sao những vị lãnh đạo khi chết người ta lại bắn 7 loạt đại bác”, bố Hằng trả lời: “Để linh hồn mau siêu thoát”. Nghe bố nói vậy, Hằng liền bảo: “Khi con mất bố bắn cho con bảy phát đạn để con mau siêu thoát trở về với gia đình mình”.
7h sáng hôm đó bố Hằng mới về đến nhà. Trông thấy đứa con gái tội nghiệp tắt thở nằm đó ông không kìm được nước mắt. Nhớ lời hứa với đứa con gái, ông lôi súng ngắn ra bắn. Tiếng súng nổ làm Hằng bật tỉnh dậy và phản xạ đầu tiên là lao ra phía tiếng súng gọi “Bố ơi!”.
Hằng đạp phải những chiếc vỏ đạn và ngã rất mạnh xuống sân. Mọi người liền khiêng cô vào trong nhà. Sau khoảng nửa tiếng, Hằng tỉnh lại hoàn toàn. Khi đó, một cảm giác rất kỳ lạ đến với cô. Thân thể dường như mất trọng lượng, như đang bay và nhìn mọi người như ở một thế giới khác.
Theo lời Hằng, trong thời gian 30 phút bất tỉnh do trượt ngã đập đầu xuống sân, cô thấy bà nội và bà ngoại (cả hai đều đã mất) gọi cô. Hằng thấy mình đang đi qua một cây cầu bắc qua con sông lớn với mây mờ sương khói bao phủ. Phía bên kia cầu, bà ngoại cùng rất nhiều người đứng vẫy tay, bà nội thì đứng bên bờ này kéo lại.
Cố vùng vẫy, Hằng tuột khỏi tay bà. Đúng lúc đó thì tiếng súng làm Hằng giật mình tỉnh dậy. Mọi người đều vui mừng khôn xiết, coi việc Hằng sống lại là chuyện thần kỳ.
Vài tháng sau, khi khỏe mạnh hẳn, Hằng thường đi lung tung, không có định hướng. Điều kỳ dị là nhìn mặt mọi người Hằng có thể biết được họ còn sống lâu hay sắp chết. Một số người đang khỏe mạnh song lại cứ như có ai đó nói với cô rằng họ sắp chết, thế là cô tìm họ nói cho họ biết rằng họ sắp chết.
Không ít lần cô bị ăn đòn vì… độc mồm, độc miệng. Ngày đó, trong làng có ông Vũ Văn Trác, 50 tuổi, rất khỏe mạnh và quý mến Hằng. Ngày Hằng còn bé, có cái bánh, cái kẹo ông đều dành cho.
Một hôm, gặp ông Trác đi làm đồng về, Hằng bảo: “Ông ơi, chắc là ông sắp mất rồi. Ông đừng đi làm nữa cho khổ!”. Nghe Hằng nói thế, ông Trác cầm cái roi trâu quát: “À, tưởng là con cô giáo mà tao không dám đánh à? Bố mày có là đại tá thì hôm nay tao cũng phải cho mày một trận”.
Khi ông Trác cầm roi trâu đuổi, Hằng còn vừa chạy vừa quay lại bảo: “Ông sẽ chết thật mà”. Ông Trác tức sôi máu đánh Hằng một trận, cô đau phát khóc, nhưng vừa khóc vừa khẳng định vài ngày nữa ông sẽ chết.
Hôm ấy những người chứng kiến được bữa cười ra nước mắt. Nhưng rồi, vài ngày sau loa truyền thanh xã thông báo ông Trác chết thật. Thông tin ấy làm cả làng sợ hãi.
Tiếp sau ông Trác là ông Bùi Văn Trai, Chủ nhiệm HTX thêu xuất khẩu xã Khánh Hòa. Ông Trai là bạn rất thân của mẹ Hằng. Hôm đó, giữa hội trường UBND xã, rất nhiều người chứng kiến, Hằng nói: “Đến tháng giêng là chú chết đấy, có bao nhiêu hợp đồng xuất khẩu chú bàn giao hết đi, nếu không đến lúc ấy lại không kịp”.
Ông Trai bực mình nói với bố mẹ Hằng rằng: “Anh chị phải về dạy bảo con, chứ cứ để nó huyên thuyên như thế là không được”. Không ngờ, đầu tháng giêng ông Trai chết thật. Sau chuyện đó cả làng bảo Hằng bị ma ám, nói ai chết là người ấy chết. Người ta cứ nhìn thấy Hằng là tránh xa.
Mọi người trong gia đình Hằng đều đau khổ. Mẹ Hằng là giáo viên dạy giỏi nhiều năm, các phụ huynh đều rất tin tưởng khi con cái họ học lớp bà chủ nhiệm, nhưng biết chuyện của Hằng thì đều xin cho con chuyển lớp.
Hằng ra sức thuyết phục mọi người rằng cô không bị thần kinh, những chuyện đó là do cô nhìn thấy, nhưng không ai tin. Cha mẹ Hằng đưa cô đi hết bệnh viện này đến bệnh viện khác khám thần kinh, rồi đưa đi gặp hết “cậu nọ, cô kia” cúng bái.
Mặc dù khi đó Hằng có khả năng phán đoán được tình trạng sức khỏe, thậm chí cả suy nghĩ của người khác, song Hằng đau khổ đến nỗi chỉ mong quên hết khả năng ấy đi.
Theo lời kể của Hằng, một ngày, trong cơn tuyệt vọng, Hằng ao ước được “nhìn thấy” bà nội và bà ngoại, những người cô rất yêu quý. Thế rồi, kỳ lạ thay, vào ngày giỗ bà nội, Hằng “nhìn thấy” bà nội (bà chết khi Hằng 10 tuổi) về, bế theo một đứa trẻ và dắt theo một đứa nữa.
Hằng nói chuyện với bà, rồi kể cho mọi người nghe. Ông nội nghe Hằng nói liền kể rằng đó là hai đứa con của ông đã mất lúc 8 tháng và 3 tuổi. Lúc này, mọi người mới kinh hoàng nhận ra rằng, Hằng có khả năng đặc biệt.
Ngôi làng Hằng đang sống có ngôi chùa Dầu rất cổ. Khi nhà Trần đánh tan Chiêm Thành, bà Huyền Trân Công Chúa không về Thăng Long mà vào tu ở ngôi chùa này. Sau này gia tộc họ Trần cũng về đây ở, rồi chết đi thì chôn luôn ở quanh chùa.
Một lần, Hằng vào nhà ông chú ruột chơi rồi bảo rằng, trong vườn nhà chú có bóng người. Nhà chú Hằng ai cũng mắc bệnh kỳ lạ, teo một bên chân, ngoẹo một bên đầu về bên phải, nên ông rất tin lời Hằng nói.
Thế là hai chú cháu đào bới thử mảnh vườn. Không ngờ thấy một lớp ngói đã mục, rồi đến một lớp đất đỏ. Gạt lớp đất đỏ ra thì thấy lớp quách bằng hợp chất gồm vỏ hến, vôi, mật. Phá lớp này ra thì thấy cỗ quan tài chạm trổ rất đẹp bằng gỗ ngọc am. Bật nắp quan tài thấy xác ướp người đàn ông. Sau này, các nhà sử học xác định ngôi mộ có tuổi 700 năm.
Chính gia đình Hằng cũng để thất lạc mộ cụ 4 đời. Nhiều lần, bố Hằng nhờ đồng đội về đào bới mà không thấy. Đúng ngày giỗ cụ, Hằng thử đi tìm. Không ngờ, Hằng “nhìn” thấy mộ cụ nằm trên đường đi. Hằng liền rủ mấy người anh ra đường đào.
Mấy anh bảo vệ xã nhìn thấy thì bảo: “Chết dở thật. Con ông bộ đội rỗi việc đi phá đường”. Hằng khẳng định dưới lòng đường có mộ thì mấy anh bảo vệ bảo: “Thế thì đem cuốc xẻng ra đào thử xem con dở hơi này nó nói có đúng không!”.
Khi đào sâu gần 2m thì xuất hiện một tấm gỗ có khảm chữ Hán. Hằng liền đem rửa mảnh gỗ đi rồi mang cho ông nội đã 80 tuổi đọc. Ông nội Hằng đọc thấy hai dòng chữ ở hai mặt tấm gỗ là “Âm thủy quy nguyên” và “Vinh quy bái tổ” thì lăn ra khóc. Bao nhiêu năm nay đã nhiều đêm ông không nhắm mắt được vì đã để thất lạc mộ tổ.
Lúc này, mọi người không còn nghi ngờ gì về khả năng đặc biệt của Hằng nữa. Nhưng bố Hằng, là một cán bộ được rèn luyện trong môi trường quân ngũ, tính tình cứng rắn, chỉ tin vào khoa học nên vẫn chưa tin vào khả năng của Hằng.
Ông bỏ cả việc cơ quan để ở nhà trông Hằng, đuổi hết những người tìm đến “cầu thánh, cầu thần”. Để chứng minh với bố rằng cô không bị thần kinh, không bị hoang tưởng di chứng chó dại cắn, cô xin bố cho đi thi đại học và hứa chắc chắn sẽ thi đỗ.
Để bố tâm phục khẩu phục, Hằng quay ngoắt sang ôn thi khối A, ĐH Kinh tế quốc dân, cho dù năm trước cô thi khối C. Chỉ có 15 ngày ôn thi, kể từ khi xin bố, vậy mà Hằng đã thi đỗ với số điểm khá cao, 24 điểm.
Khi đó, Hằng đã là cộng tác viên của Viện Khoa học thể dục – thể thao. Một số cán bộ có tâm huyết của Bộ VH-TT đã đi theo Hằng để nghiên cứu rất tỉ mỉ về khả năng tìm mộ. Hằng đã nhờ những vị cán bộ này cho người về giúp cô khảo sát lại di tích lịch sử chùa Dầu quê cô có từ đời nhà Trần.
Hằng về, “nói chuyện” với những người xây chùa, tất nhiên là đã chết cách đây 700 năm, trong đó có cả nhũ mẫu của Huyền Trân Công Chúa, là bà Phan Thị Vinh. Người xưa đã kể tỉ mỉ cho Hằng biết tòa sen như thế nào, bát hương ra sao, có bao nhiêu sắc phong từ các đời vua…
Những gì Hằng thu thập đều được các cơ quan quản lý văn hóa xác nhận đúng. Với những tài liệu, hiện vật thu thập được, Phòng văn hóa đã trình lên tỉnh, tỉnh trình lên bộ và sau đó chùa Dầu được công nhận là di tích lịch sử văn hóa.
Những gì Phan Thị Bích Hằng làm được cho đời thực sự trân trọng, không lý lẽ gì có thể bác bỏ. Đã có hàng ngàn gia đình tìm lại được người thân, đã có cả ngàn hài cốt liệt sĩ được trở về đất mẹ sau bao nhiêu năm nằm nơi rừng sâu núi thẳm, mà nhiều đồng đội, người thân đi tìm không thấy.
Thậm chí, qua Bích Hằng, lịch sử đã phải viết thêm những trang hào hùng về trận đánh khốc liệt ở cánh rừng K’Nác, huyện K’Bang, tỉnh Gia Lai. Nơi đây, dòng Đắk Lốp đã nhấn chìm 400 thi thể chiến sĩ và cả những chiến công của họ nếu không có nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng vượt rừng, lội suối tìm hài cốt của họ để đồng đội đưa về nghĩa trang liệt sĩ, mang lại niềm an ủi cho các gia đình.

(Theo An Ninh Thế Giới)

Đi tìm lời giải của những nhà ngoại cảm Việt Nam – Theo ANND

•Tháng Một 10, 2008 • Gửi bình luận

Bích Hằng và mẹ tài nhà

 

 

Hầu hết các nhà ngoại cảm ở nước ta có được khả năng kỳ lạ là do một biến cố trong đời. Ly kỳ nhất phải kể đến câu chuyện của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, cô đã có được khả năng phi thường sau một lần bị chó dại cắn suýt chết…

Theo ông Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng, ở Việt Nam hiện có gần 100 người có khả năng đặc biệt, trong đó chỉ có hơn chục người có khả năng tìm mộ thực sự xuất sắc. Còn con số lừa bịp để trục lợi, hoặc hoang tưởng mình có khả năng đặc biệt thì phải đến hàng ngàn.Chính vì thế, ông cũng cảnh báo rằng, tất cả những người chưa được các nhà khoa học cũng như những cơ quan có chức năng thẩm định, đánh giá bằng các đề tài nghiên cứu cụ thể thì không thể tin tưởng được.Qua các cuộc nghiên cứu, đánh giá, các nhà khoa học tổng kết được 4 con đường dẫn đến khả năng ngoại cảm: Thứ nhất là bẩm sinh, tức sinh ra đã có khả năng ngoại cảm. Thứ hai, sau những trận ốm thập tử nhất sinh bỗng phát hiện ra khả năng này. Thứ ba, các thiền sư tu hành lâu năm, đắc đạo. Thứ tư, do được đào tạo.

Theo ông Khanh, trường hợp trở thành nhà ngoại cảm do bẩm sinh là rất hiếm, do tu hành đắc đạo thì có nhiều, song đối với các nhà tu hành, ngồi một chỗ biết chuyện thiên hạ chỉ là một bậc nhỏ trên con đường đến cõi niết bàn.

Các thiền sư chuyên tâm tu hành, không màng đến thế sự, tiếng tăm, danh phận và rũ bỏ hết việc đời nên họ không bao giờ công bố khả năng của mình. Họ muốn giữ tâm tịnh để tiếp tục tu hành khổ hạnh, do vậy, người đời thường không biết được khả năng của họ.

Người tiêu biểu về khả năng tu hành rồi trở thành nhà ngoại cảm là anh Nguyễn Văn Nhã. Anh Nhã hiện đang sống ở TP Hồ Chí Minh. Anh thường ít khi tiếp xúc, gặp mặt người tìm mộ. Những ai muốn tìm được hài cốt người thân thường gọi điện hỏi anh, anh sẽ chỉ dẫn qua điện thoại.

Anh Nhã làm thế là vì không muốn mang tiếng kiếm tiền từ việc chỉ dẫn người đời đi tìm mộ. Chính vì thế, nhiều gia đình tìm thấy mộ thân nhân qua sự chỉ dẫn của anh, muốn tìm anh hậu tạ nhưng không biết anh ở đâu, hỏi địa chỉ thì anh không cho, thậm chí mang quà đến anh cũng không nhận.

Đã có cả ngàn người tìm được mộ nhờ sự chỉ dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã, song vẫn không biết mặt mũi nhà ngoại cảm này như thế nào. Việc có khả năng ngoại cảm do đào tạo bài bản chính là nét độc đáo ở Việt Nam mà các nhà khoa học đang chuyên tâm nghiên cứu, áp dụng.

Đã có một số người sẵn có khả năng đặc biệt, lại được các nhà khoa học rèn luyện nên trở thành nhà ngoại cảm có khả năng tìm mộ cũng như nhiều khả năng có ích khác, tuy nhiên, những người này còn đang trong giai đoạn nghiên cứu nên các nhà khoa học chưa cung cấp thông tin.

Hầu hết các nhà ngoại cảm ở nước ta có được khả năng kỳ lạ là do một biến cố trong đời. Có người bị điện cao thế giật (ông Nguyễn Văn Chiều), có người qua trận sốt hoặc trận ốm thập tử nhất sinh thì trở thành nhà ngoại cảm.

Trong số những người trải qua biến cố thành nhà ngoại cảm thì ly kỳ nhất phải kể đến Phan Thị Bích Hằng. Con đường trở thành nhà ngoại cảm của Bích Hằng vô cùng gian nan, kỳ lạ và nhiều nước mắt.

Phan Thị Bích Hằng sinh ra và lớn lên ở một ngôi làng nghèo thuộc xã Khánh Hòa, Yên Khánh, Ninh Bình. Năm 1990, khi 17 tuổi, vừa thi đại học về, Hằng cùng một cô bạn gái đang đi trên đường bỗng có một con chó nhảy xổ ra cắn. Hằng bị cắn vào chân trái, cô bạn gái bị cắn vào tay trái.

Cũng như người dân ở các vùng nông thôn, Hằng và cô bạn cảm thấy chuyện bị chó cắn rất bình thường, rồi quên ngay sau đó. Vài ngày sau khi bị chó cắn, Hằng nhận được giấy báo đỗ đại học.

Khoảng một tháng sau, cô bạn đột nhiên không nói được nữa, hàm răng cứng lại. Nghĩ là bị đau răng, Hằng đưa cô bạn đi khám. Bác sĩ nha khoa kiểm tra và khẳng định không phải do đau răng. Hai người lại đèo nhau đến Bệnh viện Quân y 5 Ninh Bình.

Sau khi khám xét, bác sĩ bảo bạn gái của Hằng có triệu chứng của người bị bệnh dại. Tưởng như đất dưới chân sụt xuống, tử thần đã nắm tay mình dắt đi, Hằng nói như người mất hồn: “Đúng như vậy. Cháu và cô bạn đều bị một con chó cắn”. Sau hôm đó, Hằng cũng hôn mê bất tỉnh. Cô bạn thân thì đã qua đời.

Gia đình đưa cô đi chữa trị nhiều nơi, bằng cả Đông y lẫn Tây y, song các bác sĩ, thầy lang đều lắc đầu, bởi bệnh này từ xưa đến nay không ai chữa khỏi. Khi đến nhà một ông thầy lang theo Thiên Chúa giáo, ông xem xét kỹ biểu hiện cơ thể rồi nói một câu an ủi: “Chúa lòng lành sẽ che chở cho con”.

Sau đó, ông bảo người con trai ra nghĩa địa lấy một mảnh ván mà người ta vừa bốc lên hôm trước, rồi bào chế với vài vị thuốc. Để giành giật giữa sự sống và cái chết, gia đình Hằng liền cho cô uống ngay vị thuốc khủng khiếp này.

Sau khi uống thuốc, ông thầy lang bảo với bố mẹ Hằng: Sau 3 tiếng đồng hồ cháu sẽ cảm thấy nóng khắp người, lên cơn sốt mê man, nói sảng, thậm chí lên cơn điên cắn xé. Nếu 3 ngày sau cháu hết cơn thì cháu sống được còn nếu lên cơn trở lại thì cháu không sống được nữa. Tôi rất muốn cứu cháu nhưng khả năng của tôi chỉ có vậy.

Đúng như lời ông thầy lang nói, 9h tối Hằng lên cơn cắn xé điên cuồng, đến 11h đêm mới thiếp đi. Ngày thứ nhất, ngày thứ hai không thấy triệu chứng gì. Ngày thứ ba, khi cùng người anh trai của cô bạn gái đã mất ra mộ thắp hương thì đột nhiên Hằng cảm thấy có một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng. Hằng liền nói: “Anh đưa nhanh em về, em sắp lên cơn điên rồi”. Từ đấy, Hằng không còn biết gì nữa.

Đến 1h sáng hôm sau, gia đình không còn hy vọng bởi Hằng đã hoàn toàn tắt thở. Bình thường, những người trẻ tuổi như Hằng ở quê được khâm liệm rất nhanh rồi đem chôn, không tổ chức lễ tang, kèn trống.

Thế nhưng, có một ông cụ dạy chữ nho ở làng rất giỏi tử vi vào nhà Hằng, sau một hồi tính toán, ông bảo: “Thứ nhất, chưa qua giờ Thìn không được khâm liệm cháu; thứ hai, cứ để nó nằm như thế, không được thắp hương”.

Lúc đó, một ông bác sĩ nói: “Tốt nhất đậy mặt cháu lại, để gia đình đi chuẩn bị cho cháu, tại sao cụ lại nói vậy”. Ông cụ đó nói tiếp: “Các anh thì có cả một nền y học hiện đại, còn tôi chỉ là tàn hương nước thánh, nhưng tôi khẳng định nó không chết”.

Nghe cụ già và bác sĩ tranh cãi, gia đình Hằng rất hoang mang, không biết xử trí thế nào. Thế nhưng, ai đi mua gỗ đóng quan tài cứ đi, ai ngồi chờ xem lời ông cụ linh ứng thế nào thì cứ chờ.

Hồi khắc khoải chờ chết, Hằng có hỏi bố (bố Hằng là quân nhân): “Vì sao những vị lãnh đạo khi chết người ta lại bắn 7 loạt đại bác”, bố Hằng trả lời: “Để linh hồn mau siêu thoát”. Nghe bố nói vậy, Hằng liền bảo: “Khi con mất bố bắn cho con bảy phát đạn để con mau siêu thoát trở về với gia đình mình”.

7h sáng hôm đó bố Hằng mới về đến nhà. Trông thấy đứa con gái tội nghiệp tắt thở nằm đó ông không kìm được nước mắt. Nhớ lời hứa với đứa con gái, ông lôi súng ngắn ra bắn. Tiếng súng nổ làm Hằng bật tỉnh dậy và phản xạ đầu tiên là lao ra phía tiếng súng gọi “Bố ơi!”.

Hằng đạp phải những chiếc vỏ đạn và ngã rất mạnh xuống sân. Mọi người liền khiêng cô vào trong nhà. Sau khoảng nửa tiếng, Hằng tỉnh lại hoàn toàn. Khi đó, một cảm giác rất kỳ lạ đến với cô. Thân thể dường như mất trọng lượng, như đang bay và nhìn mọi người như ở một thế giới khác.

Theo lời Hằng, trong thời gian 30 phút bất tỉnh do trượt ngã đập đầu xuống sân, cô thấy bà nội và bà ngoại (cả hai đều đã mất) gọi cô. Hằng thấy mình đang đi qua một cây cầu bắc qua con sông lớn với mây mờ sương khói bao phủ. Phía bên kia cầu, bà ngoại cùng rất nhiều người đứng vẫy tay, bà nội thì đứng bên bờ này kéo lại.

Cố vùng vẫy, Hằng tuột khỏi tay bà. Đúng lúc đó thì tiếng súng làm Hằng giật mình tỉnh dậy. Mọi người đều vui mừng khôn xiết, coi việc Hằng sống lại là chuyện thần kỳ.

Vài tháng sau, khi khỏe mạnh hẳn, Hằng thường đi lung tung, không có định hướng. Điều kỳ dị là nhìn mặt mọi người Hằng có thể biết được họ còn sống lâu hay sắp chết. Một số người đang khỏe mạnh song lại cứ như có ai đó nói với cô rằng họ sắp chết, thế là cô tìm họ nói cho họ biết rằng họ sắp chết.

Không ít lần cô bị ăn đòn vì… độc mồm, độc miệng. Ngày đó, trong làng có ông Vũ Văn Trác, 50 tuổi, rất khỏe mạnh và quý mến Hằng. Ngày Hằng còn bé, có cái bánh, cái kẹo ông đều dành cho.

Một hôm, gặp ông Trác đi làm đồng về, Hằng bảo: “Ông ơi, chắc là ông sắp mất rồi. Ông đừng đi làm nữa cho khổ!”. Nghe Hằng nói thế, ông Trác cầm cái roi trâu quát: “À, tưởng là con cô giáo mà tao không dám đánh à? Bố mày có là đại tá thì hôm nay tao cũng phải cho mày một trận”.

Khi ông Trác cầm roi trâu đuổi, Hằng còn vừa chạy vừa quay lại bảo: “Ông sẽ chết thật mà”. Ông Trác tức sôi máu đánh Hằng một trận, cô đau phát khóc, nhưng vừa khóc vừa khẳng định vài ngày nữa ông sẽ chết.

Hôm ấy những người chứng kiến được bữa cười ra nước mắt. Nhưng rồi, vài ngày sau loa truyền thanh xã thông báo ông Trác chết thật. Thông tin ấy làm cả làng sợ hãi.

Tiếp sau ông Trác là ông Bùi Văn Trai, Chủ nhiệm HTX thêu xuất khẩu xã Khánh Hòa. Ông Trai là bạn rất thân của mẹ Hằng. Hôm đó, giữa hội trường UBND xã, rất nhiều người chứng kiến, Hằng nói: “Đến tháng giêng là chú chết đấy, có bao nhiêu hợp đồng xuất khẩu chú bàn giao hết đi, nếu không đến lúc ấy lại không kịp”.

Ông Trai bực mình nói với bố mẹ Hằng rằng: “Anh chị phải về dạy bảo con, chứ cứ để nó huyên thuyên như thế là không được”. Không ngờ, đầu tháng giêng ông Trai chết thật. Sau chuyện đó cả làng bảo Hằng bị ma ám, nói ai chết là người ấy chết. Người ta cứ nhìn thấy Hằng là tránh xa.

Mọi người trong gia đình Hằng đều đau khổ. Mẹ Hằng là giáo viên dạy giỏi nhiều năm, các phụ huynh đều rất tin tưởng khi con cái họ học lớp bà chủ nhiệm, nhưng biết chuyện của Hằng thì đều xin cho con chuyển lớp.

Hằng ra sức thuyết phục mọi người rằng cô không bị thần kinh, những chuyện đó là do cô nhìn thấy, nhưng không ai tin. Cha mẹ Hằng đưa cô đi hết bệnh viện này đến bệnh viện khác khám thần kinh, rồi đưa đi gặp hết “cậu nọ, cô kia” cúng bái.

Mặc dù khi đó Hằng có khả năng phán đoán được tình trạng sức khỏe, thậm chí cả suy nghĩ của người khác, song Hằng đau khổ đến nỗi chỉ mong quên hết khả năng ấy đi.

Theo lời kể của Hằng, một ngày, trong cơn tuyệt vọng, Hằng ao ước được “nhìn thấy” bà nội và bà ngoại, những người cô rất yêu quý. Thế rồi, kỳ lạ thay, vào ngày giỗ bà nội, Hằng “nhìn thấy” bà nội (bà chết khi Hằng 10 tuổi) về, bế theo một đứa trẻ và dắt theo một đứa nữa.

Hằng nói chuyện với bà, rồi kể cho mọi người nghe. Ông nội nghe Hằng nói liền kể rằng đó là hai đứa con của ông đã mất lúc 8 tháng và 3 tuổi. Lúc này, mọi người mới kinh hoàng nhận ra rằng, Hằng có khả năng đặc biệt.

Ngôi làng Hằng đang sống có ngôi chùa Dầu rất cổ. Khi nhà Trần đánh tan Chiêm Thành, bà Huyền Trân Công Chúa không về Thăng Long mà vào tu ở ngôi chùa này. Sau này gia tộc họ Trần cũng về đây ở, rồi chết đi thì chôn luôn ở quanh chùa.

Một lần, Hằng vào nhà ông chú ruột chơi rồi bảo rằng, trong vườn nhà chú có bóng người. Nhà chú Hằng ai cũng mắc bệnh kỳ lạ, teo một bên chân, ngoẹo một bên đầu về bên phải, nên ông rất tin lời Hằng nói.

Thế là hai chú cháu đào bới thử mảnh vườn. Không ngờ thấy một lớp ngói đã mục, rồi đến một lớp đất đỏ. Gạt lớp đất đỏ ra thì thấy lớp quách bằng hợp chất gồm vỏ hến, vôi, mật. Phá lớp này ra thì thấy cỗ quan tài chạm trổ rất đẹp bằng gỗ ngọc am. Bật nắp quan tài thấy xác ướp người đàn ông. Sau này, các nhà sử học xác định ngôi mộ có tuổi 700 năm.

Chính gia đình Hằng cũng để thất lạc mộ cụ 4 đời. Nhiều lần, bố Hằng nhờ đồng đội về đào bới mà không thấy. Đúng ngày giỗ cụ, Hằng thử đi tìm. Không ngờ, Hằng “nhìn” thấy mộ cụ nằm trên đường đi. Hằng liền rủ mấy người anh ra đường đào.

Mấy anh bảo vệ xã nhìn thấy thì bảo: “Chết dở thật. Con ông bộ đội rỗi việc đi phá đường”. Hằng khẳng định dưới lòng đường có mộ thì mấy anh bảo vệ bảo: “Thế thì đem cuốc xẻng ra đào thử xem con dở hơi này nó nói có đúng không!”.

Khi đào sâu gần 2m thì xuất hiện một tấm gỗ có khảm chữ Hán. Hằng liền đem rửa mảnh gỗ đi rồi mang cho ông nội đã 80 tuổi đọc. Ông nội Hằng đọc thấy hai dòng chữ ở hai mặt tấm gỗ là “Âm thủy quy nguyên” và “Vinh quy bái tổ” thì lăn ra khóc. Bao nhiêu năm nay đã nhiều đêm ông không nhắm mắt được vì đã để thất lạc mộ tổ.

Lúc này, mọi người không còn nghi ngờ gì về khả năng đặc biệt của Hằng nữa. Nhưng bố Hằng, là một cán bộ được rèn luyện trong môi trường quân ngũ, tính tình cứng rắn, chỉ tin vào khoa học nên vẫn chưa tin vào khả năng của Hằng.

Ông bỏ cả việc cơ quan để ở nhà trông Hằng, đuổi hết những người tìm đến “cầu thánh, cầu thần”. Để chứng minh với bố rằng cô không bị thần kinh, không bị hoang tưởng di chứng chó dại cắn, cô xin bố cho đi thi đại học và hứa chắc chắn sẽ thi đỗ.

Để bố tâm phục khẩu phục, Hằng quay ngoắt sang ôn thi khối A, ĐH Kinh tế quốc dân, cho dù năm trước cô thi khối C. Chỉ có 15 ngày ôn thi, kể từ khi xin bố, vậy mà Hằng đã thi đỗ với số điểm khá cao, 24 điểm.

Khi đó, Hằng đã là cộng tác viên của Viện Khoa học thể dục – thể thao. Một số cán bộ có tâm huyết của Bộ VH-TT đã đi theo Hằng để nghiên cứu rất tỉ mỉ về khả năng tìm mộ. Hằng đã nhờ những vị cán bộ này cho người về giúp cô khảo sát lại di tích lịch sử chùa Dầu quê cô có từ đời nhà Trần.

Hằng về, “nói chuyện” với những người xây chùa, tất nhiên là đã chết cách đây 700 năm, trong đó có cả nhũ mẫu của Huyền Trân Công Chúa, là bà Phan Thị Vinh. Người xưa đã kể tỉ mỉ cho Hằng biết tòa sen như thế nào, bát hương ra sao, có bao nhiêu sắc phong từ các đời vua…

Những gì Hằng thu thập đều được các cơ quan quản lý văn hóa xác nhận đúng. Với những tài liệu, hiện vật thu thập được, Phòng văn hóa đã trình lên tỉnh, tỉnh trình lên bộ và sau đó chùa Dầu được công nhận là di tích lịch sử văn hóa.

Những gì Phan Thị Bích Hằng làm được cho đời thực sự trân trọng, không lý lẽ gì có thể bác bỏ. Đã có hàng ngàn gia đình tìm lại được người thân, đã có cả ngàn hài cốt liệt sĩ được trở về đất mẹ sau bao nhiêu năm nằm nơi rừng sâu núi thẳm, mà nhiều đồng đội, người thân đi tìm không thấy.

Thậm chí, qua Bích Hằng, lịch sử đã phải viết thêm những trang hào hùng về trận đánh khốc liệt ở cánh rừng K’Nác, huyện K’Bang, tỉnh Gia Lai. Nơi đây, dòng Đắk Lốp đã nhấn chìm 400 thi thể chiến sĩ và cả những chiến công của họ nếu không có nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng vượt rừng, lội suối tìm hài cốt của họ để đồng đội đưa về nghĩa trang liệt sĩ, mang lại niềm an ủi cho các gia đình.

Theo Công An Nhân Dân

15 ngày tìm anh

•Tháng Một 10, 2008 • 1 bình luận

15 ngày tìm anh


Em trai tôi hay đi lễ ở nhà cô Nguyễn Đức Hoằng (ghế tiên cô Chín)Số nhà 15 ngõ 221 phố Tôn Đức Thắng.Một hôm, nó nói với tôi: “Các chị thử đến cô soi để tìm anh, chúng em được cô soi tìm đến mộ ông đúng lắm, tả hiện trạng y trang. Em hơn 40 tuổi mới biết mộ ông em…”. (Anh tôi sinh ngày 15/12/1950, tôi còn một chị và một em gái. Năm 1954, bố tôi mất. Mấy năm sau, mẹ đi bước nữa thêm em trai và hai cô em gái. Năm 1968, gia đình tôi vẫn ở 174 phố Huế – Hai Bà Trưng – Hà Nội Thì anh đi bộ đội. Thư cuối anh gửi về đầu năm 1969 vì bí mật anh báo tin theo ẩn dụ ở một cốt truyện chỉ gia đình tôi biết anh là đặc công, là tiểu đội phó tốp 3 người, rồi bặt tin. Năm 1975 qua đi, gia đinh tôi mỏi mắt chờ không thấy anh về. Năm 1977, mẹ lên thành phố kêu mới được nhận giấy báo tử. Nay mẹ và em tôi ở 55A, ngõ 281 đường Trần Khát Chân, quận Hai Bà Trưng – Hà Nội. mọi sinh hoạt, hộ khẩu thì vẫn ở phường Ngô Thì Nhậm.).

Hôm sau hai chị em hăm hở đến gặp cô…
Dạo này trên ti vi, báo có nói về tìm mộ bằng ngoại cảm của cô Phan Thị Bính Hằng và những nhà ngoại cảm khác. Tôi lên mạng internet lần tìm địa chỉ, đọc được những câu chuyện cảm động… (Áp vong vào thân nhân tìm mộ liệt sĩ). Tôi thuyết phục mẹ tìm một nhà ngoại cảm có tên trong danh sách thử nghiệm của 3 cơ quan,(theo thông tin từ website: www.uia.edu.vn):
– Liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng(uia)
– Viện khoa học hình sự —-Bộ công an
– Trung tâm bảo trợ văn hoá kỹ thuật truyền thống

Bởi lẽ anh tôi là liệt sĩ nên g/đ tôi cần các cấp chính quyền giúp đỡ về thủ tục hành chính giấy tờ…nếu tìm được, để trả lại quyền lợi tên tuổi mà anh đáng được hưởng. Gia đình tôi chọn Cậu Liên Tứ Kỳ, Hải Dương

Tôi, em trai cùng chị xuống Hải Dương. Đông quá….Cầm tờ giấy tên chị tôi không biết nộp cho ai, không ai nhận. Chờ đợi mất một ngày.

Hôm sau thứ 6 (16/4 âm) tôi nhờ em gái Cậu nộp hộ. Thứ 7, CN Cậu chỉ khám bệnh không tìm mộ.

Thứ hai chúng tôi vào sớm bằng ôtô nhà, 7g30 đã có mặt. Mỗi người 2 gói xôi 2 ngàn ăn sáng và trưa với 1chai lavi. Là ngày tìm mộ nhân dân nhưng chúng tôi không dám về sợ có thay đổi. Chiều tối đi xe ôm ra đường QL5 bắt xe buýt về Hà Nội. (Hàng ngày chúng tôi đi về như vậy).

Thứ ba, ngày tìm mộ LS. Nhìn bó giấy to Cậu cầm không biết có tên chị tôi hay không, tôi mua 1 tờ nữa điền tên tôi Nguyễn Thị Hồng tìm mộ LS. Đợi đến trưa mọi người ra ngoài tôi đặt lên bàn Cậu. Đầu giờ chiều không biết ai đã vứt xuống ghế dưới. Giờ Cậu làm việc tôi không rời mắt khỏi tờ giấy của mình. Đến cuối ngày, đợi Cậu đứng lên đi ra, tôi chạy nhanh vào cầm tờ giấy nhân lúc mọi người nhốn nháo đặt lên bó đơn L.S của Cậu. Một người trẻ tuổi trong nhà Cậu xếp bó lại mang lên gác. Nhìn tên mình nằm trong vòng dây đỏ tôi hồi hộp mừng.

Thứ tư,ngày tìm mộ nhân dân (tuỳ ý của Cậu). Chúng tôi vẫn chầu chực không dám về.

Thứ năm chúng tôi tin tưởng là được vì em tôi baỏ hôm nay kêu các quan nhà mình cùng đi trải tiền cầu đường cho các quan, đến nơi giở sôi ra ăn, em tôi mua xôi đỗ đen tôi không ăn_sợ đen (1) lại ngày nhân dân.

Thứ sáu tìm mộ LS ,em tôi bận định chiều vào. Đợi đến10g35 tiếng gọi tên tôi vang lên, tôi dạ liên tiếp rõ to, tim đập thùng thình chạy vào ngồi dưới, chị ngồi trên. Chưa nói gì Cậu đã hỏi: “Tìm bố hay tìm anh”. Hai chị em dồng thanh: “Tìm anh”. Cậu: “Tìm anh của chúng mình, vậy đã tìm những đâu rồi?”. Chị chối: “Chưa tìm đâu cả, đến đây là một”. Cậu: “Đã tìm 4 nơi rồi, nói thật tôi tìm cho không thì thôi”.

Chúng tôi đành khai thật là đã từng gọi hồn dưới Hải phòng, đã đến thầy Bẩy Kim Liên, đã xem thầy Hoằng Hàng Bột (vì mới quen nên chúng tôi gọi là thầy Hoằng). Cậu nói: “Cô Hoằng, nhà có 3 đường vào, gần nhà thờ…”;(sau này chúng tôi mới biết là đúng còn bấy giờ nghĩ là cậu nói sai).

Sau một hồi căn vặn, Cậu cũng vẽ cho chúng tôi 1 tấm bản đồ có những nhánh sông uốn lượn tụ nhánh những con đường đi về Tân Xuân, Hoóc Môn, Sài gòn, ngôi đền cổ, và những ngôi mộ…

Cậu nói: “Tìm khó khăn đấy, có đi không?”. Hai chị em không ai bảo ai cùng đồng thanh: “Đi bất cứ đâu”. Cậu bắt đầu nói để thu băng: “Đi bằng gì?”. “Bằng báy bay ạ!” (vì chúng tôi muốn tiết kiệm thời gian dồn cho việc tìm kiếm).

“Đi máy bay 9g – 1g đến nơi,hoặc đi 7g – 11g đến nơi. Đi tắc xi thẳng về Hooc Môn không cần qua Phú Nhuận xuống ấp 3 cuối xã Tân Xuân giáp nhánh sông ấy của sông chẩy ra Sài Gòn. Đơn vị này bị nó đánh bom , Đứng ở tại gia,hỏi ấp 3 vào hỏi bà Nghĩa và một bà nữa chính bà nuôi anh mình mấy ngày dưới hầm lên,nay trạc 73t. Một người nữa là du kích địa phương nay nghỉ già tại quê hơi lân lẫn tên chính là ông Bẩy Thành, hay thạch thường gọi Bỉ Hưng ông này biết chỗ chôn. Năm đó bị nó đánh bao vây, đánh quét làng. Đơn vị đấu súng, anh minh bị nó bắn toác mất một bên má, sau rồi phơi xác nửa ngày ,chiều tối đoàn cờ đỏ, còn gọi đoàn cộng hoà của địa phương kéo đi chôn gần dẫy tre trong xóm chếch ra. Đứng ở đấy mới nhận ra ,hỏi nhân chứng họ chỉ cho. ở đấy họ đã chuyển nhiều mộ ra nghĩa trang Tân Xuân còn gọi nghĩa trang Cây Dừa,nghĩa trang guộc.Mình vào đấy hỏi nhân chứng rồi gọi cho tôi,hỏi rồi gọi cho tôi, tôi chỉ cho. Cậu nói thêm: thông minh 3 ngày tìm ra”.

Nhận bản đồ và cuận băng chúng tôi cám ơn Cậu đi về.

Chị tôi bảo in ra 3 bản mỗi người giữ 1 bản, còn tôi muốn dịch chữ ghi đầu trang xem Cậu viết chữ gì?

Em tôi bảo: “Chị hâm à, chị phô tô nóng âm binh của Cậu chạy hết, mà chị cũng không cần biết chữ gì em thấy của ai Cậu cũng viết như thế”(2). Tôi giật mình suýt nữa thì sai lầm. Tối tôi tra cứu bản đồ trên mạng internet, in ra bản đồ chi tiết của huyện Hoóc Môn. Tôi nhận định xã Tân Xuân không có nhánh sông như Cậu vẽ, cuối xã nó nằm ở Đông Thạch, ấp 3. Hướng tây bắc bên kia sông là Củ Chi, đông bắc bên kia sông là xã Nhị Bình.
Chị tôi muốn trước khi đi, xuống cô Phương Hàm rồng ở Thanh hoá. Tôi và em không muốn vì sợ nhiễu thông tin. Tôi nói dối là đặt vé rồi thứ hai đi, ra cô Phương cũng rất đông, sợ nhỡ.
Chương trình đi chúng tôi cũng góp được nhiều thông tin, thí dụ mua sắm,lễ bái như thế nào, thủ tục trải tiền cầu đường.gạo muối dẫn đường.v.v..(3)

Mẹ tôi ra phường Ngô thì Nhậm xin giấy tờ, sau khi nghe mẹ trình bầy đi tìm mộ anh tôi bằng ngoại cảm…Thật ngoài sự mong đợi,họ niềm nở và hướng dẫn mẹ rất nhiệt tình. Vậy là xong phần giấy tờ.

Tôi nói với mẹ: “Mẹ báo cho tất cả mọi người trong gia đìng và họ hàng biết đi, để khi đó mỗi người giúp một việc”. Mẹ tôi bảo: “Để chắc chắn đã, mẹ sợ mọi người cười”;Tôi nói: “Mẹ phải tin là tìm được, mẹ hãy tin chúng con, chính quyền còn không cười mẹ, mình tìm mộ liệt sĩ, anh là niềm tự hào của gia đình mình. Con đọc trên mạng internet người ta còn gọi anh là vong linh của Tổ quốc. Tìm được hay không mọi người chỉ có thể chia sẻ cảm thông chứ không ai dám cười mẹ, hãy tin là tìm được. Hàng ngày, mẹ thắp hương kêu cho chúng con”. Mẹ nghe và báo cho tất cả mọi người.

Thứ hai, 7g ba chị em tôi cất cánh, 9g30 xuống sân bay Tân Sơn Nhất. Con gái chị tôi cùng chồng ra đón, chúng tôi đi vào đến ngã 3, xã Đông thạch nhìn đồng hồ đúng 11g như Cậu nói. Mọi người tản ra hỏi tin, trời nắng như đổ lửa. Tôi đi vào một ngả đường có cổng to dựng theo lối cổ nhìn biển nhà 2 bên đường đúng ấp 3. Đi khoảng 40m bên tay trái có một nghĩa trang nhỏ cuối có con đường nhỏ dẫn vào chùa. Tự nhiên thấy người gai lạnh như cảm, lâng lâng nhưng không mệt đầu vẫn tỉnh táo, tôi vẫn đi gặp một ông chạc trên 60t, hỏi: “Bác cho cháu hỏi nhà bà Nghĩa ở đâu ạ”. Ông nói: “Cứ đi đến gần cầu thì hỏi”. Đi một quãng nữa gặp một bà cũng chạc như vậy,tôi hỏi: “Má cho con hỏi nhà bà Nghĩa ở đâu ạ”.Bà nói: “đi đến gần câù có con đường nhỏ đi vào hỏi bà ba Nghĩa”. Tôi đi tiếp người cứ gai gai, lạnh lạnh. Chưa bao giờ tôi bị như vậy, tôi nghĩ chắc có vấn đề gì đây hay âm dẫn đường…Tự nhiên thấy trào lên sự háo hức, hăm hở. Nhìn thấy cầu và con đường nhỏ bên phải tôi rẽ ngay vào, đi khoảng 30m thấy bên phải có mấy ngôi mộ, đằng sau là 3 bụi tre to nằm cạnh ngôi nhà lá lụp sụp trong khu đất khoảng 1000m2, tôi nghĩ không lẽ anh ở đây, đi tiếp vào gõ cửa một nhà hỏi bà nghĩa họ chỉ nhà sát cầu. Ra ngoài, người đã hết gai lạnh tôi thấy bên phải là một khuôn viên du lịch tư nhân của ông Ba Nghĩa là công an làm việc từ năm 75 rồi ở luôn tại đây. Không phải bà Nghĩa tôi cần tìm. Quay ra nghiã trang có ngôi chùa, tôi vẫy mọi người mang đồ vào lễ, nói với em tôi: “hình như ở khu vực này”. Lễ xong tìm nhà nghỉ tại đây cho tiện việc tìm kiếm. Vì không biết nên chúng tôi ở tận ấp 5. Lúc quay vào hỏi thăm không ai biết bà Nghĩa và ông bẩy Thạch, toàn những người mới về sau năm 75 trở đi nhà cũng mọc lên san sát. Người ta nói ngày trước lác đác còn toàn đồi, cây, sông rạch. Ở đây nhà ai cũng rộng. Trong vườn ai cũng có vài ngôi mộ, trước cửa nhà nào cũng có cây hương. Chúng tôi tìm vào lễ cả chùa gần cầu Rạch gia, mé ngoài có ngôi đền cổ đóng cửa, đầu ấp 3. Dân ở đây rất tốt, nhất là cô bán hàng nước gần cầu cuối ấp 3 người đậm, xinh gái, nhiệt tình còn đèo chúng tôi đi đến nhà một bà rất già để chúng tôi hỏi chuyện. Bà lẫn nên không hỏi được gì. Chúng tôi hỏi thăm những người nhiều tuổi đến từng nhà nói chuyện.

Chuyện má Năm Long, má từng nuôi bộ đội nằm hầm mang theo đứa con nhỏ để che mắt bọn ngụy…

Chuyện ông Tư Cưng nhà gần cầu Rạch gia, phía bên kia cầu là địa đạo Củ chi, ông là một nhà cách mạng lão thành, từng nằm vùng và chiến đấu ở khu vực này. Nghe ông kể những cuộc chiến đấu mà cả hai bên cách nhau một con sông nó ví như “Nồi da, xáo thịt”…chết không kịp chôn, những thương binh phải bỏ lại, những câu chuyện rùng rợn, những hố chôn tập thể …
Tất cả cũng chỉ ở đây từ năm 70.

Sáng hôm sau tôi nói về hiện tượng người gai lạnh mà tôi đã bị, chị tôi bảo: “ở đây nhiều ma quá thì bị chứ làm sao” nhưng chúng tôi vẫn quyết định đi vào khu đó thẳng ra cầu, cuối đường ấp 3 đó là cầu Bà Mến đựơc xây dựng về sau, sang bên kia là xã Nhị Bình. Nhìn hai bên cầu,ngắm nghía địa hình, đoán già đoán non, em tôi bảo: “em cũng có linh cảm giống chị nhưng nó chỉ thoáng qua thôi”. Đi sâu vào trong gặp ai cũng hỏi, không tin tức gì.
Gần trưa, đứng trên cầu tôi gọi cho Cậu, Cậu trả lời nghe mơ hồ ,xa xăm: “Tìm đi, ở đâu ,tìm cho tôi”, rồi cúp máy. Tôi hoang mang, tâm trạng rối bời, hụt hẫng, như bị bỏ rơi. “Hay là Cậu quên chúng tôi rồi? hay là mình tìm chưa hết?…”, mọi người nhìn, tôi không dám nói gì chỉ lắc đầu. Lại tìm, bất cứ thông tin gì , ở đâu có người nhiều tuổi , các nghĩa trang liệt sĩ chúng tôi đều tìm đến….

Chúng tôi đến ngôi đền cổ mà Cậu vẽ trên sơ đồ, chụp ảnh. Đền có từ ngày xưa, bị phá mới được trùng tu cạnh cầu Rạch Gia. Thắp hương xong đi vòng ra sau đền trên đường nhìn thấy tờ 100 ngàn đồng, tôi bảo, chị nhặt lên. Sau đình có nhiều mộ, có 3 ngôi không tên, mong đó là anh. Thắp hương khấn vái, chúng tôi ước có hiện tượng gì xẩy ra. Chếch một chút là ngôi chùa tư nhân mà chúng tôi đã vào thắp hương hôm qua. Chị tôi nói muốn vào để dâng 100 ngàn nhặt được. Đợi lâu, tôi vào thấy chị đang khóc với một nhà sư trung niên. Thầy đảo mắt khi thấy tôi, chị giới thiệu: “là em”. Thầy nói: “được rồi tôi giúp cho, nếu có ở khu vực này thì sẽ tìm ra ngay”. Rồi thầy dẫn chúng tôi vào điện thờ 3 mẫu. Ra gọi em, tôi thấy nó có vẻ không bằng lòng và đi ra cửa, tôi vào thấy thầy dẫn một bà to béo ngồi vào ghế giữa 2 mẫu và hỏi thông tin. Chị đặt lễ 50 ngàn, khai tên tuổi anh tôi. Bà khấn, rồi sổ ra một tràng nghe lủng củng tôi đoán là tiếng Miên. Bà phán: “không thấy xác, không thấy hài cốt ở đất này, bây giờ phải làm lễ, làm mộ phao, mộ giả..”. Tai ù lên nghe loáng thoáng, tôi bỏ ra ngoài gặp em nhìn ánh mắt dò hỏi, tôi nói: “bà nói chẳng còn gì…”giọng nghẹn lại. Em tôi khóc rất to, nức nở, vừa nói vừa hướng về khu mộ vô danh, tôi nghe câu được câu chăng: “bà ấy phá không cho tìm anh, anh ở đâu..”.Chưa bao giờ tôi thấy đàn ông nào lại khóc to và khóc nhiều như vậy. Hai chị em cùng khóc, đưa cho nó gói giấy ăn tôi nghĩ: “vậy là nó thực tâm muốn đón anh tôi về”.Tôi nói với nó: “mình lên huyện đi, mặc kệ chị ấy, gặp cũng không nói gì, tự biết lỗi.”(Về sau tôi nghĩ đây cũng là một sự thử thách).

Tiếp chúng tôi trên xã là 2 chị trung niên, niềm nở hỏi han và khuyên đi sang Nhị Bình, qua cầu Bà Hồng, chị kể: “cầu bà Hồng có nhiều chuyện về các vong, nhất là buổi trưa không ai dám đi, chạm vào tường cũng không dám, rồi chuyện ông hàng xóm đi câu cá thấy có bóng người cứ trèo lên miệng hầm lại tụt xuống, đến gần không thấy gì. Tôi nghe không thấy sợ, buột miệng nói: “tội nghiệp người ta không siêu thoát được”, nghĩ đến anh mình nước mắt tôi trào ra. Sang Nhị Bình qua cầu Bà hồng theo hướng khác tìm ấp 3. Toàn bộ dân bên này là theo đạo nhà nào cũng thờ chúa. Hỏi thăm họ cũng nhanh nhâủ bắt chuyện. Nhưng hỏi đến người đã từng nuôi bộ đội thì họ cũng thật thà: “không có đâu, có thì cũng bắn bỏ…”. Chúng tôi thấy lạnh lẽo không có cảm giác gì, lại quay về ấp 3 Đông thạch. Lúc này là khoảng 3g chiều, đứng ở đầu ấp thảo sẵn 1 bài để gọi cho Cậu (vì hàng ngày Cậu làm việc có rất nhiều cuộc điện thoại ở khắp nơi gọi về, mình phải nói nhanh, đầy đủ thông tin, Cậu mới điều chỉnh toạ độ cho mình được.). Tôi đọc một lèo: “Lạy Cậu chúng con đang ở ấp 3 Đông Thạch, huyện Hoóc môn chúng con đã hỏi khắp nơi không ai biết bà Nghĩa ở đâu hay chết rồi, Cậu chỉ cho chúng con tiếp ạ!”.

Cậu nói: “Đi về hướng đông nam, gặp bà Loan hỏi cho tôi”. Tôi mừng rỡ, cảm giác bị bỏ rơi tan biến. Em tôi đang xoay la bàn định hướng thì có chị bán hành gần đấy vui vẻ nhận dẫn đường (vì chúng tôi bật loa điện thoại to nên chị cũng nghe được).

Hai vợ chồng chị Loan tiếp chúng tôi. Nhìn chị tôi nghĩ “không biết trẻ vậy thì giúp được gì đây”. Sau khi nghe chúng tôi nói chuyện chị bảo: “Tôi rất ngạc nhiên tại sao người ta lại biết tôi?”. Tôi nói: “Em cũng rất ngạc nhiên tại sao Cậu lại bảo gặp chị?”. Mời nước chúng tôi xong chị nói: “có thể là tôi phụ trách về dân số và phụ nữ mà người ta bảo gặp tôi chăng, hiện giờ thì tôi không nhớ bà Nghĩa nhưng ông Bẩy thạch thì tôi nghe rất quen”. Tiễn chúng tôi chị hứa sẽ tìm giúp rồi gọi điện cho.

Tranh thủ ra nghĩa trang Tân xuân xem danh sách liệt sĩ không có tên anh mình. Có rất nhiều mộ liệt sĩ vô danh. Chúng tôi thắp hương khấn vái cầu mong có một hiện tượng, một phép mầu. Không dám gọi điện cho Cậu bởi việc của chúng tôi Cậu cho trước sau vẫn là “Tìm nhân chứng”.

Hôm sau (thứ tư), chúng tôi đến gặp chị Loan nhưng chị đã đi họp trên xã nên lại vòng vèo đi tìm nơi nọ nơi kia. Từ khi vào toàn đi bằng xe ôm, biết chúng tôi ở nơi khác nên họ thường lấy đắt. Buổi trưa quay về cầu Bà Mến (chắc dân ở đây họ cũng ngạc nhiên lắm vì họ nhiệt tình chỉ cho chúng tôi đi đông, tây, nam, bắc, lúc sau lại thấy chúng tôi lếch thếch quay về). Mấy chị em ngẩn ngơ, rò rẫm từng gốc cây, từng bụi tre, đo đường chim bay, định hướng ngôi đền cổ, dòng sông, hướng chảy… Sang bên kia cầu chúng tôi thảo sẵn một bài, không dám đứng chỗ râm mát sợ Cậu chửi là lười, tôi gọi cho Cậu nói liền một hơi không nghỉ: “Lạy Cậu, chúng con đang đứng ở đầu cầu Bà Mến cuối ấp 3 Đông thạch giáp Nhị Bình, chúng con đã hỏi bà Loan, bà không biết gì, Cậu hướng dẫn tiếp cho ch…” tôi chưa nói hết câu thì Cậu đã bảo: “Đi qua cầu đi về hướng tây bắc tìm cho tôi”. Vậy chúng tôi phải trở về bên kia-ấp3 đông thạch rồi đi về hướng tây bắc. Không có đường đi, vào nhờ một bãi rác (sau mới biết là nơi làm mía). Ghập ghềnh, bì bõm vì nước, nếu cố gắng leo trèo chắc sang được mấy ngôi mộ vô danh đằng sau ngôi đền cổ, bởi cầu Bà mến-cầu Rạch gia-cổng ấp 3 tạo thành một hình tam giác. Trèo lên một đống rác cao nhìn xuống giữa mấy bụi tre thấy có một bà già đang ngồi bóc măng trên con đường nhỏ giữa hai nhà, tôi nói: “con chào má! Cho phép con sang bên kia!”. Bà nói giọng cằn nhàn: “Làm gì có đường mà đi,rào hết rồi”. Tôi lùi lại nói với em tôi: “bà không cho đi”. Nó trèo xuống nói với bà: “Bác cho cháu sang nhờ cháu chụp ảnh”. Bà nói: “sang thì sang tôi nói không có đường đi người ta rào hết rồi chứ có nói không cho đi đâu”.

Đúng là cụt đường. Lại gọi cho cậu, Cậu nói: “Tìm nhân chứng hỏi cho tôi”. Chúng tôi vội hỏi thăm má có biết bà Nghĩa năm 69 đã từng nuôi anh tôi,rồi anh bị bắn toác bên má, bị phơi xác, rồi đoàn cộng hoà kéo đi, rồi ông Bẩy Thạch biết chỗ chôn… Bà nghe lắc đầu không biết rồi quay vào nhà,vừa lúc đó có một cô gái trẻ đi ra nói: “ở chỗ bãi rác kia kìa má, nghe nói ngày xưa có chôn chung hơn chục ông việt cộng, đã nghe thấy ai nói bốc hồi nào đâu, ở chỗ đống này này…”Lập tức bà Sáu (sau mới biết tên) quay ra nói: “Mày biết gì, người ta đâu có hỏi vậy, năm đó có một anh việt cộng mặc chiếc quần đùi trôi rạt nằm phơi ở đằng kia kìa rồi người ta kéo xác đi chôn, tôi nhìn xa thấp thoáng cái mũi, đầu cuấn băng. Chúng tôi đồng thanh: “má chỉ cho chúng con ở đâu ạ?”(về sau chị tôi bảo ly kỳ cứ như trong chuyện cổ tích, cho đi vào chỗ không có đường rồi có bà (như bụt hiện) giữa bụi tre chắn đường, rồi có khó khăn lại có người trẻ đến giúp, trùng lặp y như trường hợp của bà Loan). Tất cả đi theo má ra ngoài đường, qua đường, đi vào con đường nhỏ tới chỗ có mấy ngôi mộ và mấy bụi tre, chính chỗ ngày đầu tiên người bị gai lạnh tôi đã đi vào. Chôn đâu má không nhớ. Lập tức tôi gọi cho Cậu bởi tôi nghĩ má Sáu cũng là “một nhân chứng”:

– “Lạy Cậu chúng con đã hỏi nhân chứng và nhân chứng đã dẫn chúng con vào đây,Cậu soi cho chúng con ạ”.
– Cậu bảo: “Dưới gốc cây vú sữa, đào đi”. Mấy người đi theo ngạc nhiên tại sao cây vú sữa chết lâu lắm rồi mà Cậu lại biết.Tôi và chị vội vàng lấy hương hoa ra thắp khắp nơi. Vừa khóc, tôi kêu: “anh ơi, anh đã chỉ cho em rồi mà em ngu quá không biết anh ở đây…” Em tôi bảo chị đừng làm ầm lên người ta kéo đến. Cô chủ nhà cũng bảo nếu các chị đào thì mình cũng lặng lẽ mà làm thôi, sợ người ta gây khó khăn.Sau khi hứa sẽ bồi thường thiệt hại cho chủ nhà. Chúng tôi về nhà trọ lấy đồ lễ hoa quả tiền vàng, thuốc lá, trà, rượu, trầu cau, gạo muối… đầy đủ, còn xôi và thịt gà thím tôi ở Sài gòn làm cho, các em họ tôi mang vào. Cậu chủ nhà nghỉ bên ấp 5 giúp gọi mấy người thợ đào. Quay lại khu mộ, dân tình kéo đến rất đông Cô bán hàng nước_người giúp nhiều thông tin nói với chúng tôi: “Em thấy các chị từ xa đến tìm người thân cực.., em không vì lợi lộc gì đâu, em chỉ giúp các chị thôi. Các chị nên thuê người ở đây đào. Em biết anh Ba (nhân vật Ba đen khi xuất hiện có câu chuyện kể cho chúng tôi nhưng vì một phần mải sắp lễ lại loá mắt tin chắc ở đây nên chúng tôi không thèm nghe anh ta nói). Ảnh ở ngay trong này, ảnh không lấy đắt đâu, ảnh chuyên đi bốc mộ ở khu vực này nên có kinh nghiệm họ làm tốt hơn. Em gọi cả anh phụ trách an ninh ấp này cho các chị mình làm đàng hoàng ,yên tâm hơn”; rồi rút điện thoại gọi luôn. Chúng tôi cám ơn cô người rất sởi lởi lại xinh gái.Tốp thợ bên ấp 5 em tôi làm luật cho họ về. Anh cán bộ đến ngay, anh xúc động cũng khóc động viên chúng tôi. Lễ xong chuẩn bị đào.

Cây vú sữa nằm đâu? Tất cả mọi người đều xác nhận ngày xưa có 2 cây vú sữa rất to nhưng đã chết từ lâu. Nó nằm chính xác ở đâu thì không ai nhớ, người bảo ở đây, người bảo kia. Đành đào hú hoạ mỗi chiều khoảng 5m, sâu 4–50phân. Tôi gọi cho Cậu. Cậu bảo: “hỏi nhân chứng, đào đất cũ, mấy cái bà chán…đào đất cũ không đào cứ đào đất mới”. Nhìn lại đúng là đất mới, toàn đất và cát pha, đất cũ phải là đất đá.

Vậy gốc 2 cây vú sữa ở đâu ?. Lại nổ ra cuộc tranh cãi, người bảo tôi đã từng trèo lên cây hái quả, cây đỏ nằm trong, cây trắng nằm ngoài.Vừa nói xong thì một người khác lại nói:”tôi chuyên sang đây ăn trộm trái còn bị đuổi, cây trắng nằm trong, cây đỏ nằm ngoài.” Rồi chuyện cụ chủ đất thường quét sạch bóng dưới gốc 2 cây vú sữa, chăm sóc ngôi mộ nay cụ đã mất..rồi chuyện con chó nó tha được cái đầu lâu chôn đằng kia có đào tôi chỉ cho..cứ loạn cả lên. Má Sáu bảo chúng tôi đi vào giữa ba khóm tre đào, còn cái đầu lâu là của thằng ngụy chôn tít ở ngoài má biết. Đào khá sâu vẫn không thấy, Em tôi gọi cho Cô Hoằng, Cô soi nói số người đào, kích thước hố đào, những khóm tre, những ngôi mộ rất chính xác, không thấy anh. Tôi và chị khóc rất nhiều. Tôi nói với má Sáu: “Má ơi, 18 tuổi anh con đi bộ đội không một lần được về thăm nhà giờ anh nằm ở đây khổ thân anh con quá, con thương anh, con thấy đau trong người…” Má cũng khóc. Chiều tối ra về lòng nặng trĩu, con gái chị cũng ở lại. Đêm chúng tôi ngủ không yên giấc.

Sáng dậy sớm gọi đồ ăn sắp đũa, mời anh ăn trước. Trong suốt chuyến đi, kể cả trên máy bay chúng tôi đều mời anh ăn trước, uống trước rồi mới xin anh, ăn sau. Chỉ ăn sáng làm việc cả ngày, tối chúng tôi mới ăn,.Gót chân sưng mọng nuớc giơ cho chị tôi xem, hai ngày sau không để ý đã thành sẹo. Ở nhà đi xa một tí là tôi hay bị cảm,vậy mà trong suốt cuộc hành trình tôi chả ốm đau gì. Chị tôi bị huyết áp rất yếu,say xe…rồi cũng chả ốm, chả say.(4)

Vào đến cuối đường, má Sáu đón chúng tôi ở hàng nước: “Má nhớ ra rồi ở đây người ta đã bốc đi hết, chính cậu Trăng đã bốc, má dẫn đến nhà khỏi đào tốn kém. Đến hỏi tin tức cậu Trăng, cậu nói cũng lơ mơ,dập khuôn. Tôi lại cùng chị đi vào khu mộ còn em tôi cùng cậu Trăng lên điểm tập kết mộ ngày xưa dặn tôi không đào nữa. Tôi nghĩ, Cậu bảo đào đi, thì mình cứ đào, bao giờ Cậu bảo thôi, thì thôi. (Vì chúng tôi đã chứng kiến hôm ở nhà Cậu, có gia đình Cậu bắt vào rừng đào đúng ba ngày. Xong Cậu bảo: “chúng mày chạy nhanh ra nghĩa trang tao chỉ cho.”). (Về sau tôi nghĩ đây cũng là một sự thử thách) Lại tiếp tục đào.
Ba đen lại ba hoa về ngôi mộ của người lính đặc công mà theo anh ta kể, chính tay anh ta đào thấy khi xây mộ cho bố hay mẹ của một ông C.A…

Em tôi lên xã về, lắc đầu thất vọng. Không liên lạc được với Cậu, Hỏi cô Quý em Cậu, mới biết Cậu nghỉ đi lấy máy. Em tôi lại cầu cứu đến Cô Hoằng. Cô soi số người đào, nói rất chính xác rồi bảo đưa điện thoại cho chủ nhà cô nói chuyện. Cô chỉ nền nhà cũ, nhà mới, cầu, rồi bảo đào ở vườn mía. Anh Nhung chủ nhà xác nhận cô nói rất đúng, nền vườn mía ngày xưa có trồng, nay trồng khoai, còn cầu chị tôi tưởng có cây cầu hoá ra cầu tiêu nhỏ khoảng 80 phân vuông anh Nhung dựng cho hai cô con gái nhỏ, mọi người cười ồ, cô bảo con gái lớn nhà Nhung hay nằm mơ, Tôi hỏi cô chủ, cô nói đúng cháu hay kể. Cô Hoàng nói: “có bóng ba anh bộ đội luôn đi cùng nhau, một anh đứng ở chum uống nước(tôi mua nước trà đá để ở đấy) thấy các anh đứng đấy nên xác định toạ độ đào thử,” Lại đào.. ,anh Nhung bảo mai sắm lễ bà chúa đất và gia tiên trong nhà theo phong tục ở đây. Tôi nhờ anh sắm hộ. Má Sáu nói phải xin keo (ngoài bắc gọi xin đài).

Hôm sau (thứ 6)chúng tôi vào ăn mỳ ở đầu ấp, lúc lấy đũa, nhìn bình đũa đạy nắp trông khá sạch sẽ mở ra một con chuột chui lên. Sợ quá ăn mất ngon, con chị tôi bảo: “hay bác nằm dưới bụi tre, đũa là tre.”(5)

Theo phong tục ở đây, lễ chúa đất ngoài hoa quả tiền vàng.. còn có 3 đĩa gồm thịt, trứng và tôm, lễ ngoài sân xong không được mang vào nhà.

Đặt lễ trong nhà, khu mộ ngoài vườn và chỗ đất đang đào. Chúng tôi khấn vái xin keo lần nào cũng được, xin gì cũng cho. Đào bới tung cả khu vườn vòng quanh bụi tre. Đến giờ Cậu làm việc tôi lại gọi: “Lạy Cậu chúng con đang ở gốc cây vú sữa ấp 3 Đông thạch, Cậu soi chúng con đào thế này đã đúng chưa ạ?”.

Cậu bảo: “được rồi, dọc bụi tre mà đào.” Rất nhanh tôi nhẩy sát vào lấy tay đập vào bụi tre: “Lạy Cậu con có phải bứng cả gốc tre này đi không ạ?.”
Cậu bảo: “không cần cứ sát gốc tre có tán chẽ về hướng đông mà đào về cái hố xốp cho tôi.” Chúng tôi cứ hướng đông mà đào, đất khá mềm, đào khá sâu, có người vào nói: “ngày xưa không chôn sâu thế đâu, chỉ 5-60 phân thôi, chôn sâu quá cũng bị nó bắn tội thương việt cộng. Tôi bảo: “không chôn sâu, vậy sao sâu thế mà vẫn có mảnh bát, mảnh sành. Đào được chiếc lọ cao cũ, chị tôi vồ lấy rửa sạch giữ khư khư nghĩ là kỷ vật của anh mình. Đào sâu 1m em tôi gọi cho cậu. Cậu hỏi: “kích thước bao nhiêu?”

-Dạ sâu 1m rộng 80 phân ạ.
-Nhầm rồi, đấy là cái hầm tăng xê bị đánh sập, ngược về gốc cây me cách đấy 9m, cây me giống cây me ngoài bắc, đào về hướng tây bắc, hố xốp đào cho tôi.
Mọi người xanh le mắt, đúng có cây me cách 9m thật, thân cây bé chưa bằng cổ tay tôi, còn cái hố xốp thì thật xốp, đào mãi toàn mùn. Hố đào mỗi chiều rộng khoảng 5m, sâu 60 phân. Trời tối, chúnh tôi về nghỉ.

Ở nhà mọi người liên tục gọi điện hỏi tình hình và đã làm xong mọi thủ tục, mẹ rất lo hỏi em tôi: “không tìm thấy thì về hả.” Em tôi trả lời: “nếu không tìm được anh con không về nhà.” (Tôi nghĩ vậy là nó quyết tâm đón anh tôi về, tôi thật sự yên tâm, tin tưởng nó.) Trời tối ra về, chị tôi bảo: “Ngày mai là mùng 1, mình phải sắm một cái lễ như hôm nay, cũng có cả xôi, thịt hoa quả tiền vàng…Tao nghĩ có vấn đề gì đây, mình đang bị thử thách, anh chưa muốn về, mình phải sắm một lễ tương đối để anh chia tay. Bởi tính anh sông sêng lắm. Trước khi đi anh liên hoan bạn bè kéo đến chật cả nhà..”.(hồi anh đi bộ đội tôi đi sơ tán cùng các em ở tận Thái nguyên).

Ngày hôm sau(1/5). Chúng tôi dậy rất sớm, 5g đã đi vào, tuy không có gà nhưng cũng có xôi thịt, rượu, hoa quả, tiền, vàng, bánh kẹo..thôi thì nhập gia tuỳ tục. Sắp lễ xong khấn vái kêu cầu, khóc lóc: “Anh ơi về thôi, về với mẹ đi, mẹ già rồi, mong anh từng ngày, anh bỏ chúng em côi cút anh chia tay bạn bè, cô, bác, chú, dì đi, về nhà của anh đi.” Chị tôi còn thêm câu: “nếu anh nhớ mọi người thì anh vẫn có thể quay lại đây thăm mọi người cơ mà, về thôi, không ở đây nữa.” Kể cũng lạ, suốt từ hôm vào đây lúc nào tôi và chị cũng có thể khóc được, vừa khóc vừa kể lể đầy sự oan ức, ngon lành như không, nước mắt ở đâu mà lắm vậy? Lễ xong Anh Ba đen đến, lại bắt đầu bài diễn thuyết của mình: “Tôi nói mà không ai tin tôi hết. chính tôi đào thấy ảnh khi xây mộ cho gia đình ông C.A. Ổng đánh nhau ở vùng này rồi làm việc ở đây luôn. Bây giờ ổng chết rồi. Nhưng hồi ấy, khi đào thấy ảnh tôi có gọi ổng ra, Nhìn trang phục ổng nói với mọi người: “anh này là đặc công.” Chính tay tôi bốc cốt cho ảnh, có cả giải mũ, quần, viên đạn, tôi cũng bốc tất vào tiểu cho ảnh. Ông C.A.trả tiền, ổng nói chôn cất đàng hoàng ai nhận thì chỉ cho người ta.”

Tôi bảo: “được rồi để xem thế nào, tí nữa gọi điện cho cậu đã.” (Về sau tôi nghĩ anh Ba đen cũng là một nhân chứng, nhà anh cũng trong con hẻm nhỏ này. Nếu chúng tôi bình tĩnh, thông minh một chút, Chịu nghe anh ta nói ngay khi anh ta xuất hiện thì chúng tôi đã tìm được sau đúng 3 ngày như Cậu nói. Như vậy thì sự việc quá dễ dàng, quá đơn giản, không còn gì để nói.) Đến 8g em tôi gọi cho Cậu, Cậu bảo: “không đào nữa,ở đây người ta đã chuyển đi nhiều mộ, hãy ra nghĩa trang.”Chúng tôi quay sang anh Ba bảo chỉ cho ngôi mộ mà anh kể. Anh dẫn chúng tôi vào nghĩa trang có con đường nhỏ dẫn vào chùa mà ngày đầu tiên đi đến đấy tôi thấy gai người. Ngôi mộ nhỏ cách chỗ chúng tôi đào theo đường chim bay khoảng 40m. Đứng trước mộ, em tôi gọi cho Cậu, Cậu bảo: “đúng rồi, sắm lễ đi để anh chia tay.” Thắp bó hương xin đài không được, hoang mang, chúng tôi gọi cho cô Hoằng nhờ cô soi hộ. Một lúc cô nói: “đúng anh rồi, hôm qua cô xin các cửa đều cho hôm nay tìm được, xin cả cửa Cậu cũng vậy.” Tôi và chị bật khóc kêu: “anh ơi, anh chỉ cho em làm thế nào bây giờ, trời ơi, không biết có phải anh không?..”.Hoảng sợ, hoang mang, lại xin keo vẫn không được. Không biết cầu cứu ai, không dám chống lại, nhỡ đúng anh mình thì sao. Như người mộng du, tôi và chị vừa khóc vừa đi chuẩn bị đồ lễ, xôi không có, chỉ có thịt, hoa quả tiền vàng, rượu thuốc,bánh kẹo..Khi lễ em tôi bàn giờ mình lại gọi cho cô Hoằng giả vờ hỏi giờ bốc để cô soi. Cô nói: “trong mộ có 4 viên gạch vỡ, chiếc tiểu không bằng phẳng hơi vênh, xương cốt cũng không còn nhiều. Đúng anh đấy.” Rồi cô dặn 3g chiều bốc.

Qua câu chyện rời rạc của anh Ba, chúng tôi hiểu là (Khi ông C.A.thuê anh Ba xây mộ cho g/đ ổng gần gốc cây cách ngôi mộ này khoảng 5-6m đào phải anh tôi, anh Ba gọi ổng ra, Ổng nhìn trang phục ổng nói anh này là đặc công. Rồi họ lôi anh tôi ra để bờ rào. Xong việc, họ mới mang anh ra tượng đài mua tiểu cho vào xây ra chỗ khác, vùng này là ngụy chiếm đóng. Lính chủ lực rất ít toàn người Nam, bốc cốt nhìn người Nam hay Bắc biết ngay. Người bắc hàm răng đẹp trắng bóc”..

Ra ngoài em tôi nói: “Vợ em bảo nếu không phải anh, mà là đồng đội của anh thì mình cũng coi là anh, cứ đón về.” Rồi nó đi lo thủ tục giấy tờ, Vào chùa xin xác nhận của sư thầy, vì là đất chùa. Rồi lên huyện. Qua nhà nghỉ thanh toán, Để khi xong việc, chúng tôi sẽ về luôn.
Ra mộ dưới cái nắng chang chang, tôi gục xuống khóc như mưa như gió: “Anh ơi, anh chỉ cho em đi, anh ở đâu?, anh đã theo chúng em suốt từ nhà vào đây anh nỡ để em bê người khác về sao?, anh muốn người khác vào nhà mình sao?, nếu không phải anh thì anh ngăn chúng em lại đi, ngăn chúng em lại đi, em xin anh đấy, chỉ cho em đi..” Nước mắt lưng tròng, tôi vào nhà và mộ ông CA. Ngay cạnh nghĩ trang, xin phép vào thắp hương ông, tỏ lời cám ơn, đặt lễ 300 ngàn, Xin ông cho phép tôi đón anh tôi về. Tôi cùng chị vào cám ơn má Sáu, vợ chồng anh Nhung rồi ra đợi em tôi.

Chị tôi hoang mang tợn, tôi nghe chị gọi điện cho bà Nhung ở phố Cấm Hải Phòng nhà thờ điện khá to, bà cũng có một số quyền phép. Tôi nghe chị nói: “Làm thế nào bây giờ? làm thế nào…chúng nó cứ mang về đây này, em sợ lắm, làm thế nào?..đây chị nói chuyện với nó đi,” Rúi điện thoại cho tôi, tôi nghe bà nói rất nhiều, rất lâu, đại khái là: “chị đừng làm thế, em soi rồi, anh chị không còn gì đâu, chị bê người khác về không có lợi cho mình đâu, không tốt đâu. Nếu đúng là anh mình thì phải có một vật sáng gì đấy, một cái cát tút 10 phân.”…Tôi chỉ vâng dạ cho xong, trí đã quyết. Trả điện thoại cho chị, không nói một lời. (Về sau tôi nghĩ đây cũng là một sự thử thách.)

Ra mộ anh tôi khấn: “Nếu phải anh thì khi bốc mộ xin cho em thấy một vật gì đó 10 phân.” Xin keo được ngay. Nói lại với chị lòng cầu mong đúng như vậy.
Em tôi quay về, giấy tờ đã xong. Chính quyền xã họ rất nhiệt tình thủ tục nhanh gọn chỉ đưa em tôi tờ phô tô. Em tôi nói lúc xin xác nhận của sư thầy, thầy khóc có vẻ giấu điều gì không nói, chắc thầy biết anh bị phơi hàng rào như vậy.

Đến giờ bốc, nhìn đội ngũ anh Ba 4-5 người, nào cuốc, nào xẻng, nào xà beng…Trông thật hùng hậu. Để sẵn chậu rượu, thắp bó nhang xin phép. Em tôi lại gọi cho Cậu giả vờ xin Cậu cho về bằng máy bay để Cậu soi. (Vì khi ở nhà Cậu chúng tôi chứng kiến có g/đ đã ôm tiểu rồi mà Cậu còn bắt chôn trả lại, chỉ cái khác) Gọi cho Cậu, Cậu nói giọng bùi ngùi: “anh mình đấy, xương cốt chẳng còn nhiều, rồi bảo muốn nói chuyện với anh Ba.” Tôi nghe Ba đen liến thoắng: “dạ chính tay con bốc cho ảnh, chính tay con chôn…”.rồi vâng vâng dạ dạ liên tục..Xong Cậu dặn chúng tôi đi chuyến muộn. Khi tôi hỏi anh Ba Cậu nói gì thì ảnh nói không có gì. Chúng tôi đứng tránh để anh Ba và một anh béo vào. Anh Ba giơ cuốc(bụp)chiếc nắp mỏng vỡ vụn rơi xuống trơ chiếc tiểu lộ thiên nằm ngay trên mặt đất, 2/3 là nước và một túm nylon đời mới thò ra ngoài. Như thế này gọi là chôn sao? Sau giây sững sờ, tôi dấm dứt khóc: “Em thương anh quá, khổ thân anh quá, tại sao lại thế này..” Trong lòng trào lên nỗi oán trách mà không biết trách ai. Chị gái tôi cũng thò tay vào cùng anh béo nhấc hai túi nylon đời mới rách lên xương cốt rơi tả tơi nát tươm, hai anh rửa từng ít một Còn một chiếc quần đùi nilon rách sơ, một đoạn dây đai mũ tai bèo đã ngả mầu, một túm túi nilon buộc dây rất chặt đựng xác còn khoảng 30 phân rỡ ra gần như còn tốt, ở dưới rách nát vụn, chắc vì kéo lê, một mẩu viên đạn em tôi gói lại cất vào túi áo ngực. Còn một chiếc đinh 10 phân, chị giơ lên ngắm nghía ngập ngừng, tôi định giữ, chị ném đi, em tôi cũng lẩm bẩm: “Vứt nó đi.” Chắt trong chậu và tiểu còn đất cát cho tất vào túi khác. Ở dưới đáy có 4 viên gạch vỡ đúng như cô Hoằng nói. Là gạch lát mộ của nhà họ mầu mận, chắc còn thừa. Nhìn lớp cát vàng mỏng dưới đáy, tôi nghĩ người này cũng biết chút ít phép đây.

Trải tấm nylon, trải vải đỏ anh Ba xếp xương, Tuy xương mủn nhiều nhưng hàm dưới anh còn nguyên, hàm trên tìm chỉ có một nửa và 3 chiếc răng cửa nhỏ trắng muốt rời rạc. Tôi lẩm bẩm: “đúng mất một bên hàm.” Ngầm khẳng định với chị đúng là anh như trong băng Cậu nói. Anh Ba gấp khăn tôi bảo anh giở ra, em tôi nói nhờ anh kêu hộ, chưa dứt câu, tôi đã bật miệng kêu lên vừa khóc: “Ba hồn bẩy vía anh nguyễn hữu thắng ở đâu, đông, tây, nam, bắc, quay về nhập xác, để em đưa anh về Hà nội.” Đúng ba lần. Tôi cũng chả hiểu tại sao tôi lại có thể kêu trôi chẩy như vậy, ở nhà tôi nghĩ chắc phải nhờ người khác.
Con chị tôi mua 3kg chè bồm trải vào valy có đáy mỏng và 1 bộ quần áo bộ đội thật, đẹp, lót cho anh nằm khỏi đau (vì thông tin anh đi trinh sát chỉ mặc một chiếc quần đùi, cô Phan thị Bích Hằng nói chưa nhìn thấy vong nào mặc quần áo giấy. Để chắc ăn tôi bảo mua quần áo thật cho anh.(4).

Hậu tạ anh Ba xong, chúng tôi đi tắc xi ra thẳng sân bay. Trên đường, em tôi bảo:“lạ lắm, có mỗi 3kg chè, anh chỉ còn một ít, cái valy thì mỏng, mà xách nặng chĩu, lúc lại nhẹ tênh.”
Tôi nói với mọi người, vậy là không phải cái cát tút 10 phân mà là cái đinh10 phân, anh có giấu giấy tờ tuỳ thân thì cũng chỉ cho vào vật nhỏ xíu thôi, chứ tút đạn 10 phân thì lộ hết.
Chị biết tôi ám chỉ ai nên nói: “người ta nhầm thì thôi, ờ mà cái đinh 10 phân có khi nào mà anh bị người ta yểm không nhỉ?”

Tôi: có thể lắm,vì khi n/t đào thấy anh, như người khác là phải tránh sang bên, đắp trả, có phải đất nhà người ta đâu, anh đã nằm đấy từ năm 1969cơ mà. Đằng này lại kéo anh ra hàng rào. Xây của mình xong, rồi mới bốc vào túi nylon vừa bé vừa rách phải lồng 2 túi mang ra chỗ khác, dúi vào tiểu làm gì mà chả nát. Tiểu thì không nắp, để ngay trên mặt đất. Như vậy người ta gọi là: “không táng.” Mà lôi đi lôi lại còn gì. Đến Cậu soi cũng không ra ngay. Cô Hoằng soi cứ thấy ba anh bộ đội đi cùng nhau. ở nhà Cô nói anh có kỷ vật mà mấy người khác cũng nói vậy. Chuyện này khi về phải hỏi cho ra.? (5)

Đến sân bay, đi chuyến 8g30. Thím tôi, em Đức cũng ra tiễn. Con gái chị tôi nói: “khiếp mọi người trông bẩn quá.”Nhìn lại, tôi thấy kinh thật, mới mấy ngày mà mặt mũi ai cũng đen nhẻm, tóc tai bết lại, quần áo lấm lem, nước mắt lúc nào cũng trào ra mà không dám khóc, lén lút như kẻ trộm.

Chúng tôi nhất trí nếu bị giữ lại, cùng ở lại, đi cùng đi, không gửi vào chỗ gửi đồ, không rời anh.

Qua cửa thứ nhất chót lọt. Cửa thứ 2 anh bị giữ lại, trình giấy tờ lại là giấy phô tô, xin sỏ không được. Họ nói nếu gửi đồ phải làm giấy cam đoan mất không kiện cáo thì cho đi, còn không, phải có giấy kiểm dịch. Đành về khách sạn nghỉ. Sau khi tắm rửa sạch sẽ, quần áo gọn gàng, chị em bảo nhau: Anh không cho đi hôm nay là phải. Trông mấy chị em như một lũ mọi, đi chui đi lủi giấy tờ thì phô tô. Lúc anh đi bộ đội trống dong, cờ mở. Lúc anh về cũng phải đàng hoàng, danh chính ngôn thuận.
Hôm sau (2/5âm) em tôi dậy sớm vào xã lấy lại tờ giấy đóng dấu.Tôi cùng chị đưa anh đi kiểm dịch.

Đến chiều ra sân bay, nhờ có cháu rể nên mọi việc cũng suôn sẻ. Xuống sân bay Nội bài. Anh em, họ hàng ra đón khá đông. Đưa anh qua nhà, rước ảnh vào để lên ban, thắp nén nhang.chị em tôi khóc: “Anh ơi đến nhà rồi, chúng em đã đưa anh về với mẹ rồi. Mẹ ơi, bốn anh em chúng con đi cùng nhau, ăn cùng nhau, nằm cạnh nhau, có sợ gì đâu, sao anh không được vào nhà, khổ thân anh, về nhà rồi mà không được vào.” Tất cả mọi người đưa anh xuống nhà tưởng niệm ở nghĩa trang liệt sĩ Ngọc hồi. Anh trông coi nghĩa trang này cũng là một thương binh, rất giầu lòng nhân ái, đêm hôm vẫn chờ, giúp chúng tôi tận tình. Tôi nói với mẹ: “Mẹ ạ, anh con bây giờ đã theo chúng con về, em con, nó cũng thật tâm với anh. mọi việc chăm lo, lễ bái mẹ cứ để cho vợ chồng em con nó làm”. Mẹ tôi: “Ừ,thì nó muốn làm gì, thì làm”.
Mùng 3/5 âm chúng tôi đến cô Hoàng nhờ cô xem ngày, giờ tốt để hạ huyệt. nhân thể nhờ cô lễ cho.

Cô cho 6 giờ ngày 4/5/07 Hạ huyệt. Chính quyền phường, hội cựu chiến binh cũng đến đọc điếu văn tiễn đưa anh. Lễ hạ huyệt xong, đặt tay lên mộ anh tôi khấn: “Anh ơi chúng em đã đòi được quyền lợi cho anh rồi, từ nay anh không còn bị phơi nắng nữa, anh đã có nơi yên nghỉ. Đã được mát mẻ rồi.”

8giờ ngày 6/5/07 Làm lễ. Anh xin lễ tương đối to, lễ tại đài tưởng niệm, lễ tượng trưng cho cả khu nghĩa trang này, Cô tụng kinh rất lâu.
Tôi hỏi :”Thưa cô lễ này mình có thể gọi là đàn không?” Cô bảo : “được.”
Tôi thấy lòng thanh thản, nước mắt không còn rơi, vì nhớ đến cô Phan thị Bích Hằng trên ti vi có nó: “Hôm thiền sư Thích nhất Hạnh lập đàn cầu siêu trong nam cô nhìn thấy hàng trăm vong lũ lượt kéo về nghe tụng kinh.” Cô kêu gọi nên lập nhiều đàn cầu siêu cho các linh hồn chết oan uổng.”

Chúng tôi hỏi cô Hoằng về cái đinh 10 phân trong xương của anh. Cô bảo :nếu theo thầy bên Miên họ yểm đinh vào làm hồn phát tán không nhập được vào xác. cô soi cứ thấy ba anh bộ đội, có thể là ba hồn của anh. Không soi được phần cốt, cái này phải hỏi cậu thì rõ hơn. Lễ xong cô bảo chiều đi tạ Cậu.
Em tôi định làm xôi thịt lợn luộc, tôi nhớ ra hôm ở nhà Cậu tôi có nói:” nếu mình xong việc thì phải lễ các quan xôi gà.”

Dâng các quan xong, chúng tôi vào gặp.Cậu. Mới chào. Cậu đã nói: “tìm thấy anh rồi thì thôi” Tôi đem điều băn khoăn của mình trình bầy với Cậu. Cậu vẫn nhắc đi nhắc lại : “Tìm thấy anh rồi thì thôi, một thằng nó đào, một thằng gom. Tìm thấy anh rồi thì thôi.” (về sau chị tôi bảo, anh mình đúng là được nó gom thật. gom tất vào túi nylon vừa bé lại vừa rách, rúi vào tiểu, làm gì mà chả vỡ nát)
Ra về, bứt dứt tôi nói: “Cậu bảo tìm thấy anh rồi thì thôi là thế nào” ?
Em tôi: “Chắc Cậu sợ mình kiện cáo.”
Tôi: “Kiện thật chứ còn gì nữa, bắt nó phải bồi thường cho anh mình.”
Chị: “Nó chết rồi kiện cái gì. ? bồi thường cái gì.” ?
Tôi: “Nó chết thì mới kiện được chứ, kiện âm mà, nó sống kiện làm sao được? mà Cậu bảo thôi là thôi thế nào? -chả hiểu được ?.”..

Tất cả những điều tôi tường thuật trên đây đều đúng sự thật, mắt thấy, tai nghe, và những suy nghĩ của chị em tôi. Có thể có những chi tiết tôi quên không ghi vào, còn không hề thêm thắt. Trong suốt cuộc hành trình này. Tôi thấy nó cứ hư hư, lại thực thực, thực thực, lại hư hư. Đối với tôi đến bây giờ vẫn còn là một điều bí ẩn. Mọi người tin hay không thì tuỳ.,.
Nhân bài này. Gia đình tôi chân thành gửi lời cảm ơn đến :
-Cậu Nguyễn văn Liên Tứ kỳ, Hải Dương .
-Cô Nguyễn Đức Hoằng số nhà 15 ngách 60 ngõ 221 Phố Tôn Đức Thắng.
-Bí thư chi bộ quận Hai Bà Trưng. Hà Nội.
– Các cấp Chính quyền, Hội, cụm 3 phường Ngô Thì Nhậm, quận Hai Bà Trưng, Hà nội
-Chính quyền ấp3, xã Đông thạch, huyện Hóc Môn, Thành Phố Hồ chí Minh.
– Cùng toàn thể nhân dân ấp 3, xã Đông Thạch, anh em, họ hàng, bạn bè gần xa, Bà con khối phố.

Những người đã nhiệt tình theo sát giúp đỡ, chia sẻ, cảm thông với gia đình chúng tôi. Giúp cho gia đình chúng tôi hoàn thành được sứ mệnh này.,.
Hà nội ,ngày 02 tháng 07 năm 2007.
Nguyễn Thị Hồng
( Ghi chú :1,2,3,4,5, – Có thể chỉ là ngộ nhận, )  

Nhờ nhà ngoại cảm, tìm được em trai 60 năm thất lạc

•Tháng Một 9, 2008 • 1 bình luận

Năm 1945 hai anh em ông Thật và ông Thà thất lạc nhau trong nạn đói khủng khiếp. 60 năm sau người anh đã tìm lại được người em không phải bằng các phương tiện truyền thông hay do sự tình cờ mà là do… chỉ dẫn của một nhà ngoại cảm.

Ông Thật và ông Thà.

Tổng kết các đề tài của Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng, Viện Khoa học hình sự – Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ văn hóa truyền thống cho thấy, có đến trên 60% các cuộc tìm kiếm thành công. Với số lượng và tỉ lệ hài cốt tìm được như trên có thể nói rằng, việc tìm được hài cốt mất tích không thể là ngẫu nhiên.

Họ đã phối hợp với các nhà ngoại cảm tìm được trên 10 ngàn hài cốt liệt sĩ. Ba cơ quan là Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng, Viện Khoa học hình sự – Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ văn hóa truyền thống cũng đã phối hợp với nhau thực hiện các đề tài nghiên cứu các nhà ngoại cảm từ hơn 10 năm nay.

Tổng kết các đề tài cho thấy, có đến trên 60% các cuộc tìm kiếm thành công. Với số lượng và tỉ lệ hài cốt tìm được như trên có thể nói rằng, việc tìm được hài cốt mất tích không thể là ngẫu nhiên. Ngoài việc tìm thấy hài cốt thất lạc, các nhà khoa học cũng đã ứng dụng khả năng của các nhà ngoại cảm vào những công việc khác.

Một chuyện gây sửng sốt trong giới khoa học diễn ra gần đây là việc nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện đã tìm được một người còn sống sau 60 năm thất lạc.

Trong căn nhà đơn sơ ở thôn Trung Thịnh (Trường Thịnh, Ứng Hòa, Hà Tây) ông Vũ Đức Thật, 70 tuổi, không nén được xúc động khi kể về hành trình đi tìm người em trai vẫn còn sống sót sau 60 năm thất lạc.

Ấy là năm Ất Dậu 1945, cả nước phải hứng chịu cảnh tang thương đói khát. Dù khi đó mới chưa đầy 9 tuổi, song ký ức về những ngày đói khát vẫn còn hằn in trong ông rõ mồn một. Nạn đói đã cướp đi mạng sống của cha và 2 người trong số 5 anh em nhà ông.

Người cha đã chấp nhận chết đói để ông và mấy anh em có được mẩu củ chuối, mẩu rãi khoai giành giật cuộc sống với tử thần. Để tiếp tục sống, ông Thật và người chị gái là Vũ Thị Quặng (77 tuổi, hiện đang sống ở thôn Họa Đống) phải đi làm thuê, ở đợ mỗi người một phương cho nhà giàu.

Ba tháng sau khi cha mất, trên đường đưa người em út đi tha phương cầu thực, mẹ ông đã qua đời vì không chống lại được cơn đói. Mấy chị em ông Thật cũng mất mẹ và cậu em út từ lúc đó luôn. Khi đó, người em tên Thà của ông mới có 4 tuổi.

Người ta mang xác mẹ ông đi đâu cũng không rõ. Trong thâm tâm ông, cậu em út chắc chết đói ở đâu đó và được người ta đem chôn vào hố chôn tập thể rồi.

Gần đây, khi một người trong làng Trung Thịnh tìm được hài cốt liệt sĩ thất lạc qua các nhà ngoại cảm thuộc sự quản lý của Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng, đã nhen lên trong ông niềm hy vọng. Ông cũng thử tìm đến cơ quan này để nhờ với hy vọng mong manh.

Được sự hướng dẫn của các nhà khoa học, ông Thật cùng người con trai cả được tiếp xúc với nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện. Trước nhà ngoại cảm, ông Thật trình bày nguyện vọng muốn tìm hài cốt người mẹ và em trai thì cô Nguyện nói với ông: “Cứ tìm xong mẹ đã rồi hãy tính đến em”.

Nhà ngoại cảm thắp nén nhang, rồi như chăm chú nhìn vào khoảng không, cô nói với ông Thật: “Năm 1945, khi mẹ ông dắt theo người em út từ quê ra đến Thanh Trì (Hà Nội), qua ngôi chùa thuộc thôn Triều Khúc, xã Tân Triều thì qua đời do mệt và đói. Người dân qua đường đã chôn cất mẹ ông vào bãi tha ma của làng, nhưng sau này người ta di chuyển bãi tha ma đi để xây dựng khu nhà cao tầng tái định cư. Xương cốt mẹ ông hiện nằm trong khu đất ở của một người có tên chữ cái đầu là C”.

Ông Thật nghe vậy thì thực sự kinh hoàng. Ông chưa nói bất cứ thông tin nào về người mẹ và em trai mình, kể cả các nhà khoa học, vậy mà chị Nguyện nói rất chính xác. Ông cảm tưởng như chị đang nhìn vào màn hình chiếc tivi vô hình đặt trong khoảng không đang phát ra những gì diễn biến tại ngôi chùa làng Triều Khúc cách nay 60 năm.

Sau khi mô tả xong, chị Nguyện lấy giấy bút vẽ lại rất tỉ mỉ sơ đồ nơi có hài cốt của mẹ ông Thật. Cầm tấm sơ đồ khá chi tiết trên tay, lòng ông không khỏi nghi ngại, phấp phỏng: Liệu gia đình có may mắn tìm được hài cốt mẹ mình hay không?

Nhưng rồi, sự việc cứ thế trôi chảy, sau hai ngày tìm kiếm theo sơ đồ và sự hướng dẫn thêm qua điện thoại, ông Thật đã tìm được hài cốt của mẹ mình dù chỉ còn những mẩu nát vụn do khi chôn không có quan tài và đã 60 năm không được sang cát.

Kỳ lạ thay, những thông tin như ngôi mộ nằm dưới gốc cây hồng xiêm, cạnh ngõ, chân nằm dưới tường nhà anh Triệu Văn Cường… đều đúng như chỉ dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện. Trong niềm xúc động lẫn vui mừng, ông Thật lại tìm gặp các nhà khoa học với những hy vọng sẽ tìm được… hài cốt em trai mình.

Sau khi trình bày kết quả tìm mộ mẹ mình, ông Thật nhờ chị Nguyện tìm tiếp mộ người em trai như lần trình bày trước. Sau một thoáng chau mày, nhìn vào không gian, chị Nguyện nói với ông Thật: “Không thể tìm được hài cốt em trai ông, vì ông… chưa chết”.

Nghe chị Nguyện nói thế, ông Thật và người con trai cả lặng đi, không nói nên lời. Sau khi trấn tĩnh, ông hỏi lại chị Nguyện rằng ông nghe lời chị chưa rõ: “Cô vừa nói gì thế ạ?”. Chị Nguyện tiếp: “Em trai ông hiện nay vẫn còn sống. Năm 1945, ông ấy đi cùng mẹ, khi bà chết, một người đã bế ông ấy đi theo hướng Cao Bằng – Lạng Sơn”.

Khi nghe được thông tin này, các nhà khoa học lập tức vào cuộc, theo dõi sát sao và ghi nhận lại khả năng “nhìn” xuyên không gian, thời gian để tìm người còn sống của nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện. Nếu khả năng này có thật thì đây sẽ là kỳ tài, các nhà khoa học sẽ phải bỏ nhiều công sức nghiên cứu, theo dõi tiếp.

Tiếp tục nhắm nghiền mắt như trạng thái “xuất hồn”, chị Nguyện đã xác nhận người em trai của ông Thật hiện đang sống ở một vùng đất thuộc thành phố Thái Nguyên. Sau đó, chị Nguyện bật băng ghi âm và nói rằng: Vì người còn sống nên không vẽ sơ đồ mà chỉ cần tả đường đi, rồi cứ theo lời tả mà tìm sẽ thấy.

Cầm cuốn băng về, ông Thật và con cháu nghe đi nghe lại. Thật khó có thể tưởng tượng nổi vì sao chỉ ngồi một chỗ mà nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện lại có thể tả chi tiết đến từng cây cầu, con suối, từng kilômét đường đi. Trong niềm khấp khởi người em còn sống, ông và con cháu sắp xếp lên đường nhanh chóng tìm lại em mình.

Hôm sau, ông Thật và một số người thân lên đường. Lần đi đầu tiên này, ông đi với mục đích chủ yếu là tìm hiểu địa bàn. Từ trung tâm thành phố Thái Nguyên đi theo hướng nhà ngoại cảm chỉ, ông cũng gặp “hai cầu cao và một cái cống nhỏ” có hình dáng, đặc điểm giống như lời mô tả trong băng.

Tuy nhiên, đi thêm một đoạn thì có đến 5 cái cống nhỏ nữa, cái nào cũng có hình thù giống nhau. Ông Thật và các con cháu chia nhau thành nhiều ngả, vào các làng xóm quanh khu vực hỏi han, song không ai biết chút thông tin gì về người em Vũ Văn Thà của ông. Mất phương hướng cộng với việc không liên lạc được với nhà ngoại cảm, bố con ông đành quay về.

Tìm gặp chị Nguyện để báo cáo kết quả của ngày tìm kiếm đầu tiên, ông được chị cho biết rằng ông đã đi sai hướng. Theo nhà ngoại cảm, hướng đúng phải là Thái Nguyên – Bắc Kạn. Vậy là cuộc tìm kiếm lại quay về điểm xuất phát.

Lần này, ông Thật và người con trai cả lên đường từ rất sớm theo đường chính từ trung tâm thành phố Thái Nguyên đi Bắc Kạn. Khi nhận thấy các thông tin về địa hình, địa vật đã khá chính xác, ông cẩn thận liên lạc với chị Nguyện thì được chị chỉ dẫn ngay: “Bác đã đi quá 5km, phải lùi lại rồi rẽ phải vào khu vực gần ga ấy”.

Trong thâm tâm ông nghĩ rằng, mọi chuyển động của bố con ông đều được nhà ngoại cảm đặc biệt kia nhìn thấy. Quay lại khoảng 5km, hai cha con ông rẽ phải theo hướng dẫn thì đến ga Quán Triều. Theo lời nhà ngoại cảm, trên đường đi sẽ gặp một doanh trại bộ đội. Đi tiếp 3km thì vào địa phận xã Cù Vân, thuộc huyện Đại Từ, Thái Nguyên.

Lúc ấy đã là giữa trưa, các ngả đường bố con ông đã đi qua hết để tìm kiếm dấu hiệu như nhà ngoại cảm miêu tả, song tin tức về người em trai vẫn bặt vô âm tín. Bao nhiêu hy vọng trong ông đã vơi đi rất nhiều.

Có thể, ông không có duyên tìm được em trai mình dễ dàng như tìm thấy hài cốt mẹ. Nếu người em ông còn sống mà ông lại không tìm được thì những ngày cuối đời ông sống cũng không an lòng.

Buổi chiều, ông Thật tiếp tục gọi điện cho nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện để xin thông tin điều chỉnh và trình bày cả những băn khoăn trong lòng thì thật bất ngờ khi được chị hướng dẫn: Vẫn còn một con đường nhỏ bên trái dẫn vào chân núi. Loay hoay mãi rồi bố con ông Thật cũng tìm thấy một con đường nhỏ lẫn vào những tán cây mà bố con ông không để ý.

Đi sâu 1km vào phía chân núi, ông nhận ra một ngôi nhà đúng như lời chị Nguyện mô tả, chỉ khác là bên trái không có cái ao nào. Tim đập thình thịch, ông Thật lò dò bước vào căn nhà đó với bao nhiêu hình dung về khuôn mặt người em trai đã thất lạc từ hơn 60 năm trước.

Tuy nhiên, người chủ nhà đó lại là ông Nguyễn Văn Chắc. Qua trò chuyện được biết ông Chắc là người còn cả bố mẹ và anh em. Vừa thất vọng, vừa không giấu được lòng mình, ông Thật đem câu chuyện về người em trai đã mất tích mấy chục năm kể cho ông Chắc.

Không ngờ, ông Chắc cho biết trong vùng cũng có một người chừng tuổi như thế, được một người ở đây đưa về làm con nuôi từ khi còn nhỏ. Thế nhưng, người đàn ông đó tên là Khương Văn Thông chứ không phải Vũ Văn Thà.

Nhận lời dò hỏi giúp, ông Chắc khuyên hai cha con ông Thật nên quay về đợi tin vì theo ông việc này không chắc chắn lắm, vả lại cũng không thể kết luận ngay được.

Suốt 10 ngày ở quê, ông Thật sống trong thắc thỏm lo âu và hy vọng, song không thấy tin gì báo về. Không có tin của người đàn ông tên Chắc thì coi như hết hy vọng. Đúng dịp đó thì có một chị cùng xóm tên là Cần bảo rằng sắp tới sẽ về xã Cù Vân (Đại Từ, Thái Nguyên) thăm mẹ đẻ. Chị Cần mới làm dâu ở làng ông Thật mấy năm nay.

Ông Thật vội vàng lấy mảnh giấy viết mấy chữ: “Tháng 12/1945, mẹ Trương Thị Vòng có đưa em Vũ Văn Thà đi, sau khi mẹ mất có người đã nhận và đưa em lên Thái Nguyên làm con nuôi…”.

Về xã Cù Vân, chị Cần đưa cho người đàn ông tên Thông mảnh giấy ghi mấy dòng chữ đó. Đọc những dòng chữ đó, ông Thông rơm rớm nước mắt. Ngày đó ông còn quá nhỏ, không nhớ được điều gì, nhưng khi lớn, trong những buổi sum họp gia đình, cha mẹ nuôi ông thường hay kể rằng, ông bà mua ông bằng một thúng gạo của một người lạ mặt.

Người lạ mặt đó cũng kể rằng họ “nhặt” được ông dưới Hà Nội, khi mẹ ông chết đói. Cha mẹ nuôi ông không có con, đã nhận ông làm con nuôi, đặt tên cho ông là Khương Văn Thông và lấy năm khai sinh là 1945. Nặng ân nghĩa với cha mẹ nuôi, ông Thông coi họ như cha mẹ ruột của mình, hết lòng phụng dưỡng khi sống và hương khói thờ tự khi họ qua đời.

Nhưng tuổi càng cao, nỗi mong ngóng tìm về quê quán, cội nguồn càng xót xa. Ký ức đau thương thời thơ ấu dù lớn thế nào cũng không còn chút gì trong ông. Nhận được lá thư của người đàn ông lạ, nhưng như có linh tính mách bảo, ông Thông lập tức hồi âm với những lời lẽ tha thiết mong sớm được gặp mặt ông Thật.

Ngay sau ngày nhận được thư của ông Thông, hai cha con ông Thật lại lên đường đi Thái Nguyên. Thật kinh ngạc khi cảnh vật nơi ông Thông ở đúng như lời mô tả trong băng ghi âm: “Từ mặt đông bắc trông ra, tay phải là bếp, tay trái là ao. Tiến vào một chút là vườn cây, vườn rau. Có hai nếp nhà và lên nhà phải qua bậc thang”.

Lòng trào dâng xúc động, nhưng ông Thật vẫn có phần e ngại vì hình dạng ông Thông khá khác biệt so với dự đoán của nhà ngoại cảm. Ông Thông cao hơn và khắc khổ hơn chứ không “trẻ hơn và thấp hơn”.

Qua chỉ dẫn, người con ông Thật tìm gặp bà Tiễn (84 tuổi, là con nuôi lớn của bố mẹ ông Thông, thường tắm cho ông Thông khi nhỏ, hiện sống ở làng cạnh), và được bà kể mọi chuyện về thời thơ ấu khổ đau, lưu lạc của ông Thông y như nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện mô tả.

Không còn nghi ngờ gì nữa, anh vừa khóc vừa chạy về với chú ruột của mình. Trong lúc anh con cả của ông Thật đi “điều tra”, ông Thật cũng “kiểm tra” tiếp bằng cách điện thoại về cho nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện.

Kỳ lạ thay, ông Thật chưa kịp trình bày nỗi băn khoăn, chị Nguyện đã nói ngay: “Ông Thông chính là người em trai bị thất lạc của ông hơn 60 năm trước, ông không phải lăn tăn, điều tra gì nữa”.

Bao nhiêu tình cảm và mong chờ trong những ngày tìm kiếm chợt vỡ òa. Hai anh em ông Thật và ông Thà ôm chầm lấy nhau trong nước mắt chứa chan. Hôm sau, hai anh em về quê. Đón họ là những giọt nước mắt mừng mừng tủi tủi của con cháu, xóm làng.

Sau khi thắp nhang khấn vái bên mộ cha mẹ, trước bàn thờ tổ tiên và họ hàng thân thiết, ông Thông đã được nhận lại tên họ, quê hương, bản quán của mình sau hơn nửa thế kỷ lưu lạc. Cả gia đình ông Thật còn bàng hoàng khi nghe lại đoạn cuối trong cuốn băng ghi âm lời hướng dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện: “Tìm một mà được mười ba”. Ông Thà có cả thảy 13 người con và cháu.

Sau khi tìm được em trai Vũ Văn Thà, ông Thật tiếp tục tìm được mộ chị gái Vũ Thị Quắng ở giữa cánh đồng xã Phương Tú (Ứng Hòa). Bà Quắng bị chết đói năm 1945, khi 11 tuổi và được người ta chôn luôn ngoài cánh đồng.

Đặc biệt, trong một chuyến đi vỏn vẹn một tuần, bằng sự chỉ dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện, bố con ông Thật còn tìm tiếp được 2 liệt sĩ nữa, là anh vợ và em vợ ông Thật. Hài cốt liệt sĩ Vũ Hồng Quân được tìm thấy ở xã Nghĩa Thương (Tư Nghĩa, Quảng Ngãi) và liệt sĩ Vũ Hồng Quang được tìm thấy giữa nông trường cà phê bạt ngàn thuộc xã Đắk Sắk (Đắk Nông)

Phạm Ngọc Dương

Bí ẩn ngôi nhà chôn nhiều hài cốt

•Tháng Một 9, 2008 • Gửi bình luận

Từ đầu tháng 3-2007 đến nay, trong khoảng 150m² nền nhà của bà Phạm Thị Rược ở thôn Thạnh Nghĩa, thị trấn Thạnh Mỹ (huyện Đơn Dương – Lâm Đồng), đã phát hiện và đào bới được hơn 20 bộ hài cốt.

Từ khung xương người chết và những vật dụng chôn theo như đạn, áo ngực phụ nữ, áo đầm, mắt kính… gia đình bà Rược tin rằng đây là hài cốt của người Pháp. Ngoài số hài cốt đã đào bới được, khả năng còn rất nhiều bộ hài cốt nữa. Đây là phát hiện gắn với một câu chuyện ly kỳ hơn 60 năm qua…

Căn nhà bà Rược từng là mồ chôn tập thể của hơn 20 người Pháp?

Chuyện khó tin qua lời kể của các “nạn nhân”

Nhà bà Rược ở ngay Quốc lộ 27B. Năm 1958, vợ chồng bà đến đây mua lại mảnh đất này làm nhà sinh sống. Lần lượt sau đó 10 người con ra đời. Ba thế hệ sống trong ngôi nhà này luôn có cảm giác lành lạnh, nhờn nhợn, phảng phất âm khí. Con cháu và những người thân của bà Rược từ Đồng Nai, Hải Dương… đến ở nhờ trong nhà đều nói rằng nhà này có ma. Những người đó sau này đều ăn nên làm ra, cuộc sống sung túc.

Trong khi đó, nhà bà Rược ngày một sa sút, tính toán làm ăn gì cũng thất bại. Chị Vũ Thị Kim Tháp (SN 1975) khá xinh đẹp nhưng thường xuyên ốm đau. 32 tuổi, cũng chừng ấy lần chị phải đi bệnh viện chữa đủ thứ chứng bệnh. Khi thì uể oải, tím tái như người đau gan, khi thì quặn như đau ruột thừa… lần nào chị cũng phải gấp rút đến bệnh viện điều trị.

Nhưng rốt cuộc bác sĩ không chẩn đoán được chị bị bệnh gì. Mấy năm gần đây, đường tình duyên của chị có phần lận đận. Đã vài ba lần dợm bước lên xe hoa nhưng đều không thành.

Vào năm 2001, gia đình bà Rược đã đào dưới nền nhà một bộ hài cốt còn cả quai hàm và bộ râu quăn. Gia đình họ đã xây cất cho bộ hài cốt này một ngôi mộ khá khang trang tại nghĩa trang Thạnh Nghĩa. Hai năm sau, năm 2003, ông Năng bị bệnh mất. Nhiều đêm mẹ con bà Rược mất ngủ vì mơ hồ nghe thấy những âm thanh đập phá vào những vật dụng bằng gỗ trong nhà nghe rõ mồn một.

Từ chỗ sợ hãi, chị Tháp dạn dĩ hẳn lên. Bị mất ngủ, chị thức dậy bật điện la lối, một lúc sau những âm thanh đó mới chịu im. Khoảng đầu tháng 3-2007, chị Tháp đang ngủ chợt nghe tiếng người gọi chị dậy, chỉ chỗ và nói chị đào họ lên. Hố này có 5 – 7 xác người nằm chồng chất lên nhau. Nhiều hố, huyệt ở 4 góc – ước độ chu vi một chiếc quan tài, có 4 cái đinh to bẻ quặp xuống như đóng nắp quan tài. Có khi một chỗ là cả vốc 4 – 5 cái đinh gãy.

Khi mọi người đào lên, phát hiện một hài cốt có mái tóc dài. Trong bộ hài cốt đó có một chiếc áo ngực còn nguyên hình dáng được làm bằng chất liệu cotton đặc biệt, bên trong lót lớp lưới! Trước đó, chị Tháp nằm mơ thấy một đôi thanh niên nam nữ đi chơi ở bên một hồ nước. Cô gái da trắng, tóc vàng, tay cầm đôi dép khỏa nước. Ít bữa sau, một đêm chị Tháp đang ngủ thì mơ thấy một đôi nam nữ chỉ chỗ góc cầu thang nhà chị.

Chị Tháp và nắp hộp sữa hiệu Guigo tìm được cạnh một hài cốt

Quả nhiên, khi đào lên, thấy hài cốt của một cặp nam nữ nằm cạnh nhau, phía dưới toàn nước khiến anh em chị Tháp vừa đào vừa phải múc nước. Có chuyện lạ kỳ nữa là có lần vào nửa đêm, các con bà Rược đào bới mãi, khoét hầm hàm ếch mà vẫn chẳng thấy hài cốt như chị Tháp chỉ nên bắt đầu thấy nản. Lần lượt từng người leo lên khỏi miệng hầm không đào nữa, chỉ còn lại một mình anh Tịnh – con rể bà Rược.

Thấy vậy, anh Tịnh cũng vứt cuốc xẻng leo lên rồi qua nhà người em vợ liền vách ngồi hút thuốc lá. Bất ngờ, chiếc hầm đó đổ sập xuống. Sợ quá, mấy anh em họ chăng điện thắp sáng, tiếp tục đào thì phát hiện 3 bộ hài cốt. Mùa lễ Phục sinh (tháng tư vừa qua) nửa đêm, gia đình bà Rược thường bị đánh thức dậy bởi những tiếng đập bàn, đập tủ trong nhà. Dù mọi người thức dậy hẳn, nhưng phải lâu sau đó tiếng đập này mới chịu ngưng.

Hơn 40 ngày nay, gia đình chị Tháp tạm gác hết mọi công việc đồng áng, bán hàng (nhà chị bán cửa hàng tạp hóa), đóng cửa lại, mấy mẹ con chị tập trung, kiên tâm vào việc đào bới, tìm hài cốt còn sót dưới nền nhà với ý nguyện đưa họ lên, mang ra nghĩa trang chôn cất tử tế, gia đình cũng được yên. Trong nhà họ, hơn chục hầm hố được đào bới trông như một góc bãi vàng. Đến nay, họ đã đào được tổng cộng trên 20 bộ hài cốt, đem chôn thành 16 nấm mộ ở nghĩa trang Thạnh Nghĩa và vẫn đang tiếp tục đào bới, tìm kiếm…

Cần một kết luận khoa học

Chúng tôi được bà Rôda Nai Chuông (65 tuổi), người dân tộc K,Ho ở đây cho biết: bà sinh năm 1942, sống ở đây từ bé. Khi bà độ chừng 4 – 5 tuổi, thường được ông cậu của mình (sau đó là già làng ở đây) kể rằng có một đoàn người Pháp ăn tiệc trưa trong một vườn cây rất đẹp nằm ở phía bên kia đường (con đường này khi đó là đường mòn), sau đó bị ngộ độc, được chuyển đến trạm y tế của người Pháp (cách nhà bà Rược bây giờ chừng 500m) để sơ cứu, nhưng hầu hết đã chết.

Nền nhà bà Rược bị đào bới để tìm hài cốt

Theo tìm hiểu của chúng tôi, thị trấn Thạnh Mỹ này xưa có tên là thôn M,Lon – trung tâm quận Đran cách Đà Lạt một quả núi. Giữa đỉnh núi có một suối nước rất đẹp còn gọi là suối Lauria hay hồ Tiên. Thay vì đi theo đường vòng qua núi, người Pháp tính “thiết kế” một con đường băng qua đỉnh núi và đặt một đồn lính ở ngay gần hồ Tiên.

Thôn M,Lon khi đó chỉ toàn là người dân tộc ít người, thời điểm này (trước năm 1945) có thêm người Pháp sinh sống. Trong số các huyệt – hố đào lên, có cả đạn của Pháp. Chiếc áo ngực “bền” cỡ đó chắc chắn phải là phụ nữ châu Âu thời đó dùng, chứ đồng bào dân tộc làm sao có. Nắp hộp sữa hiệu Guigo bằng nhôm vẫn còn sáng loáng. Đây là loại sữa chỉ có giới tư sản thời đó dùng. Mắt kính tuy chỉ còn gọng, nhưng cũng nói lên chủ nhân của nó phải là giới thượng lưu.

Gia đình bà Rược theo đạo Thiên Chúa. Họ làm việc này dựa trên tâm linh, tình cảm của con người với con người. Bà Rược bảo rằng “chúng tôi chẳng tin chuyện ma quái, cứ coi như làm phước đưa họ đi, xây mồ mả cho họ yên nghỉ”. Gia đình bà Rược chỉ thuộc diện đủ ăn, vậy mà lâu nay họ đã phải bỏ ra nhiều công sức để đào bới. Có đồng nào, họ lại dành dụm, gom góp mua áo quan, thuê xe đưa hơn 20 người xấu số đến nghĩa trang chôn cất.

Đường từ nhà bà Rược đến nghĩa trang gần một cây số, sợ nhầm, sót xương của người đã khuất, họ xúc hết đất trong các huyệt – hố lên bỏ vào hàng mấy chục bao tải chở lên theo. Nhìn các anh Thông, Diệm, Tịnh… đào bới một cách cẩn thận, say sưa, thỉnh thoảng họ lại thắp hương cầu nguyện, nói chuyện với người đã khuất, xin họ mau chóng hiện ra bỗng thấy thương đến lạ.

Các anh kể rằng, khổ nỗi là cứ phải đào đêm mới linh, mới dễ thấy hài cốt. Nhiều người được thuê đến đào bới đã lần lượt bỏ đi hết, trả tiền nhiều họ cũng không dám làm. Vậy nên, hàng bao đêm nay mẹ con bà Rược phải dùng đèn điện, nấu thêm bữa ăn đêm để tiếp tục công việc đào bới. Chị Tháp nói rằng, cứ sau một lần tìm được một bộ hài cốt, chị thấy người mình như nhẹ hẳn ra, cuộc sống gia đình cũng dễ chịu hơn.

Từ chỗ sợ hãi, nhờn nhợn, họ dần thấy quen thuộc. Mặc ai đàm tiếu, nghi ngờ, mẹ con bà Rược vẫn âm thầm miệt mài đào bới, cầu mong tìm kiếm được hết hài cốt để đưa đi một lượt. Sở dĩ chúng tôi biết câu chuyện này là nhờ anh Phạm Thành Trung – Tổng Giám đốc Công ty DRI (tập đoàn Accor của Pháp chuyên quản lý khách sạn 4 – 5 sao trên thế giới) – nhà điều hành, quản lý KS Palace, Novotel, sân golf Đà Lạt và Novotel Phan Thiết. Anh Trung đã lớn lên ở đất Đơn Dương, anh đã giúp gia đình bà Rược một số tiền nhỏ để họ làm công việc này. Có cách nào đó để những hài cốt người Pháp này được trở về cố quốc, mồ yên mả đẹp, đó là ý nguyện của mẹ con bà Rược.

Tuy nhiên, việc làm rõ gốc gác những bộ hài cốt nghi là của người Pháp này, chắc chắn phải cần đến những nhà nghiên cứu và cơ quan chức năng. Tất cả phán đoán của người dân được phản ánh trong bài viết này đang cần một kết luận thuyết phục hơn từ những bằng chứng lịch sử và khoa học. Có như vậy mới xóa được những tin đồn hoặc hành vi lợi dụng mê tín dị đoan làm ảnh hưởng đến ANTT tại địa phương xảy ra việc này.

Theo Hà Ngọc